Thứ Ba, 3 tháng 11, 2015

Mùa xuân trong mắt

Hoàng Quý


Tôi ngồi uống trà dưới tán khóm trúc nhỏ trên cái ban công tí tẹo nhà tôi.  Ánh trăng hạ huyền gần sáng yếu ớt lẫn với ánh sáng đèn nhờ nhờ như máu bết. 
Thình lình đối diên tôi một bóng người ủ rũ, tóc tai xõa xượi. Tôi quát: Ai? Tiếng cái bóng trắng cất lên: Ông có phải là nhà thơ không? Tôi bảo, còn tùy cách nghĩ của người đời, nhưng ông là ai mà hỏi tôi như vậy. Cái bóng trắng rầu rĩ. Tôi nhớ cái lần ông đi với thi sĩ họ Trịnh thắp hương các vua Lê Duy tông, Lê Hiển tông, nhưng trước mộ tôi hai ông đều quay lui. Vậy là?... Tôi là Chiêu Thống. Tôi đi khắp nước non đã mấy trăm năm, đâu đâu cũng phỉ nhổ tôi, không nơi nào thèm nhìn tôi cả...
Chắc bởi tiếng thét làm vợ tôi choàng tỉnh và lay gọi. Ông ơi, ông mơ lành dữ thế nào thét lên thế. Tôi tỉnh hẳn, nhìn đồng hồ,3 giờ sáng. Không ngủ lại được.
Năm ấy, 2005, cũng cữ này, tôi theo thi sĩ Trịnh Thanh Sơn về thăm quê ông Thanh Hóa. Ông rủ tôi qua Bàn Thạch thắp hương cho các vua Lê triều Lê trung hưng. Ông chỉ cho tôi cái con sông đào từ đập Bái Thượng về xuôi do người Pháp bắt phu đào đắp cắt đôi vùng đất trù phú. Chúng tôi qua phía tả ngạn thắp hương cho vua Lê Dụ tông. Lại dừng bên hữu ngạn, nơi có lăng vua Lê Hiển tông ở cồn Mã Lăng, nhưng không ai bảo ai, thắp hương xong trong lăng Lê Hiển tông, chúng tôi trở lui. Giờ thì cái bóng ma Chiêu Thống còn vật vờ mãi kia là do chuyện ấy.
Đêm trừ tịch năm kia năm kìa, bỗng dưng hâm hâm dở dói viết viếc. Tôi chả khai bút khai biếc bao giờ. Tự dưng cái đêm 30 nọ nó hóa ra như thế. Gửi bài thơ cho nữ sĩ Vũ Thanh Hoa, ai dè đúng giao thừa bài thơ lên trang. Ít ngày sau thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo cũng đăng. Rồi trang Chim Việt cành Nam bên Pháp cũng đăng. Rồi nhiều trang khác. Sáng nay, mấy cuộc điện thoại gần xa bảo, tìm cái "Mùa xuân trong mắt" của ông như tìm ma. Sao mới cạn thu bạn bè lại nhắc bài thơ ấy. Thì đăng vào mùa thu liệu có ai đọc cho không? Hay lại bảo, cái thằng, hâm tỉ độ. Thôi, bạn còn nhắc còn yêu thì đăng lại vậy. Thơ phú đa đoan, Ta ư, ta vốn hâm từ thủa lọt lòng!    




“Hữu thời trực thướng cô phong đính
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”
                       (Không Lộ)

Tượng đài Nguyễn Huệ Quang Trung ở Hà Nội - Ảnh sưu tầm

Hôm ấy voi thiêng rầm rập tiến
Người vào chào muộn tết Thăng Long
Hỏa hổ chớp
Đào hồng bốc lửa
Giang sơn của ta đâu phải bếp người Thanh


Hôm ấy xung thiên tràn khí nộ
Hôm ấy Thăng Long rực tiếng reo hò
Hôm ấy đá ghi
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để răng đen
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Hôm ấy Người bước xuống từ bành voi áo bào nồng hỏa hổ
Hôm ấy thiên nhan òa khóc trước anh hùng
Cả Thăng Long hái hồng đào rước đuốc
Thắp lên hồn núi sông...

Nàng sững đứng ngay kia
Vọng phu của ta, Tô thị của ta
Vì sao hóa đá?
Ta có lỗi gì chăng
Ta chết đã lâu rồi!
Ta là đất dâng một ngày yên ả
Là hoa thầm nở tinh sương
Là nước mắt nàng đầm đìa sông suối
Là cỏ cây thơm thảo ba miền
Nàng vẫn ngóng người ư hỡi Vọng phu, Tô thị?
Sao dắt con theo như phỗng bên nàng?
Thất vọng chăng?
Hay hoang mang?
Hay chán nản?
Vì các con, không tiếc thân che chắn
Nàng mớm búng cơm và gạn sữa từng ngày
Chả lẽ chúng cũng ngây như đá
Để người chết muốn đạp mồ đứng dậy
Thét
Vì sao?

Em hỏi anh thế nào là hạnh phúc
Mây vô chừng hờ hững trên cao
Nước mắt lung linh mà sao mặn chát
Nước mắt và mây nhẹ, nặng thế nào?
Em hỏi anh cội nguồn bất hạnh
Con họa mi mắt thẳm trong lồng
Ai đánh bẫy Tự Do
Ai quây bủa những nan lồng lòe loẹt
Ai tróc lưỡi bên họa mi dạy hót
Họa mi có buồn khi hót lên không?
Em hỏi anh con mình khôn lớn
Hoa cầm tay
Hay cung nỏ lại cầm
Câu hỏi khó
Anh cúi đầu hỏi đá
Máu muôn người trôi vô ích chăng?

Đêm dài quá
Gió từng cơn giận dữ
Gọi cơn mơ thắt ngực ngược rừng
Bao giấc chết ngày hai mươi tuổi
Muốn đội mồ trừng mắt trân trân!...

Vì sao?
Vì sao?
Không ai muốn trả lời tôi cả
Một đám thi nhân
Một lũ người thừa
Một mớ rối dây
Một bầy nhặng xị
Hát lăng nhăng
Von véo lăng nhăng
Vì sao?
Không ai nỡ trả lời tôi cả
Ta khoe tốt khoe tươi mà đĩ nhiều đến thế
Đĩ ma cô dẫn gái ăn tiền
Đĩ bán trôn hớn hở khoe trôn
Đĩ Quốc doanh đớp như cá mập
Đĩ Tư doanh đục nước béo cò
Đĩ đổi chác bất cần văn tự
Đĩ khốn khổ ăn sương
Đĩ gian thương ăn mánh
Đĩ giăng hàng cao thấp nhấp nhô
Đĩ chạy cờ
Đĩ đực
Đĩ cò đất
Đĩ nhà quê
Đĩ ỡm ờ
Đĩ thị tứ
Đĩ nói leo
Đĩ ăn theo
Đĩ hót
Tót lên cao có đĩ hàm hồ
Vì sao?
Không ai sẽ trả lời tôi cả
Một bầy sâu
Một bầy sâu nhung nhúc
Em hỏi anh thế nào là Hạnh phúc
Hạnh phúc còn gì mà ra thế kia?!...

Đêm lạnh quá
Nghe gió về lay cửa
Sớm mai mồng một lên chùa
Sớm mai mẹ đi xin lộc Phật
Phật lại cười vô vi

Đêm lạnh quá
Ngày mai xuân nữa đến
Lại chúc râm ran
Lại hơ hớn đào hồng
Chị hai ra đình
Anh hai vin cành
Chị hai mắt liếc
Cành sòi trổ bông
Cành sòi áo mắc
Cành sòi ngang dọc con nhện giăng tơ
Chị hai nâng gót
Yếm buông hững hờ
Chị hai hát mái đình đỏ ngói
Chị hai qua cầu sen ngoái chị hai
Mạn khai thuyền tôi
Chị bồng chị bế
Dùng dằng đi, ở
Tơ chỉ còn vương
Xác còn nấn ná
Tìm đâu vô thường!?...

Ảnh sưu tầm
Ngày cuối Chạp - 2012

Nguyên tác:
“Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thướng cô phong đính
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư”
                 (Ngôn hoài - Không Lộ Thiền sư)

Lan Nguyên dịch:
“Chọn được đất lành ở thảnh thơi
Lòng quê vui sướng trọn ngày thôi
Có khi lên thẳng đầu non thẳm
Cười lớn âm vang lạnh cả trời”