Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân (phần II)

Chu Văn Sơn

(tiếp theo phần I)

Cố nhiên, không phải ngay từ đầu mọi chuyện đã hoàn chỉnh đến thế. Có thể thấy tư tưởng của anh ngày càng định hình cùng hai bước ngoặt lớn. Lần thứ nhất: đối mặt với thực tại chiến tranh. Trước khi vào lính, cũng như bao người khác, Duy còn "trong suốt giữa hai bờ hư thực", nghĩa là cả tin và ngây thơ giữa cõi thực và cõi hư, mà hư lại nhiều hơn thực. 
Hoàng Cầm (ngồi) và Nguyễn Duy
Thực tại tàn khốc của chiến tranh với "bom Mỹ dội nhà bà tôi bay mất / đền Sòng bay bay tuốt cả chùa chiền / Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết / bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn", đã thẳng tay ném Duy về hiện thực. Cái hiện thực của kiếp thảo dân: "Khi tôi biết thương bà thì đã muộn / bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi". Và lần thứ hai đối mặt với thực tại sau chiến tranh khi thấy "tầng ôzôn có vấn đề gì đó". Một lần nữa, anh lại thấy "Bụi thần thánh nhấp nhánh rơi", và nhất quyết đem "trả cho sao một chút trời xa xăm", còn riêng phần mình thì hoàn toàn "bình tâm làm hạt bụi người mà bay". Nghĩa là anh mới thấu suốt cái vạn đại của thảo dân, cái vĩ đại của rạ rơm, cái trong veo của cát bụi
: "xin nghe anh nói cực nghiêm / linh hồn cát bụi ở miền trong veo". Đơn sơ mà kỳ diệu, bấy giờ, không chỉ là một chân lý của nghệ thuật, mà đã trở thành xác tín của nhà nghệ sĩ. Bấy giờ, chìm nổi với thập loại chúng sinh, suốt đời làm rượu của chúng sinh, thực sự thành lẽ sống của Duy.
*
Xây dựng thế giới nhân vật không phải là công việc nhất thiết của một thi sĩ trữ tình. Điều căn bản là bộc lộ cái tôi của mình. Tuy nhiên, cái tôi ấy chỉ thực sự được phơi trải khi gặp đối tượng của nó. Cho nên nhân vật trong thơ trữ tình vừa là đối tượng khách thể vừa như những đối ảnh, những hoá thân, hiện thân khác nhau của cái tôi thi sĩ. Cái thế giới mà Nguyễn Duy dựng lên suốt cả nghiệp thơ của mình, hoàn toàn có thể coi là cõi chúng sinh thì hiện tại: binh lửa và bụi bặm, bùn nước và gió trăng, nghèo đói và tiềm năng, tàn phá và gây dựng, xơ xác và nhen nhóm, bần bách và phù hoa... mà đâu đâu cũng là mồ hôi và nước mắt. Có ngẫu nhiên đâu, khi ở đó, nhân loại nhân vật của thi sĩ này hầu hết là thảo dân! Họ là thập loại chúng sinh thì hiện tại. Trong đó, ta cũng thấy bóng dáng những ông vua. Nhưng hoặc là ông vua vì chúng sinh mà phải gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người (vua Duy Tân), hoặc là đã trải hết nỗi đời một thảo dân, trăm sự đều vì đời sống lương dân (Pie đại đế), chứ không phải loại vua coi dân là lương thảo. Còn thì tất cả thuần là thứ dân. Họ là những bà và mẹ - "Bà và mẹ hoá cánh cò cánh vạc", là ông và cha - "ông và cha man mác kiếp trâu cày", là bà mẹ đồng chiêm - "bà mẹ đón tôi trong gió đêm / nhà mẹ chật nhưng còn mê chỗ ngủ / mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ / rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm", là ông già sông Hậu - "Trôi dạt theo sông về đây cày cấy mướn / sống giang hồ trên đồng ruộng bao la". Họ là những Thị Nở, Thị Đốp, Thị Kính, Thị Màu, những AQ với Chí Phèo. Họ là ông già Chàm gù lưng, là lão bị gậy khóc khàn trên sân ga, là bà bới rác nằm co ro gầm cầu, là một em điếm ế đón giao thừa gốc cây, là chú bé đi bụi khoèo mái hiên lắng nghe pháo tết, là một người nạng gỗ ngồi bên sông nhớ nhà, "những sinh linh đầu đường sinh linh cuối chợ / tết đến đùng đùng ai đi đâu về đâu"... Họ đều "Lóc cóc kiếp đá cuội, kiếp bùn nước", kiếp "con cò lặn lội bên bờ đại dương", "ngán ngẩm những con đường mệt lử", suốt đời "thình thịch những bước chân tõe ngón", "những bàn chân Giao Chỉ"... Nhưng, họ không chỉ mang nỗi khổ thảo dân mà còn mang cái đẹp thảo dân. Họ sống với những lẽ phải muôn đời, giản dị đến nôm na mà lớn lao đến khôn lường, thâm trầm khiến ngơ ngác: "Ai nghèo thiếu qua chia cơm xẻ áo / bụng người sôi cũng sôi giống bụng ta / ki cóp một thân làm chi cho cực / giàu ở lòng còn đẹp ở thịt da / dư ít nuôi làng dư nhiều nuôi nước / thành tích đéo gì mà phải nêu tên", "Cha tôi đó dân làng tôi vậy đó / xả hết mình khi nước gặp tai ương / rồi thanh thản trở về với ruộng / sống lặng yên như cây cỏ trong vườn". Chẳng phải họ là thảo dân theo nghĩa đen của chữ đó ư? Cái đạo lý muôn đời của thảo dân vẫn vậy. Có gì bình dị mà vĩ đại hơn thế? Có gì đơn sơ mà kỳ diệu hơn thế? Duy viết về họ bằng niềm cảm thương, bằng nỗi đau đời day dứt, nhưng hơn hết là bằng một niềm kính trọng.

Trong cuộc sống cũng như trong thi ca, người ta yêu thương cả nhân loại thật dễ, còn yêu thương được những người cụ thể thật khó. Cái lẽ của thường dân vốn cho rằng: khó có thể tin vào tình thương dành cho nhân loại của ai đó, nếu như kẻ ấy không biết thương ngay những người quanh mình, những người thân của mình. Lòng thương với những người máu mủ ruột rà bao giờ cũng là thước đo tin cậy nhất cho lòng nhân ái của một con người. Ta hiểu vì sao, dù phiêu dạt đường nước, dù phiêu du đường xa xứ người, với bao nhiêu là mời gọi quyến rũ, Nguyễn Duy vẫn đau đáu một niềm cố hương, vẫn thiết tha đến thế với "cỏ và lúa và hoa hoang quả dại - vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải - bờ ruộng bùn lấm tấm dấu chân cua”, thủy chung đến thế với tre pheo, rơm rạ, xó bếp, góc vườn, cái chum, cái chĩnh, cái rổ, cái xề, nặng tình đến thế với bạn bè đồng đội... Ta cũng hiểu vì sao trong nhân loại nhân vật của thi sĩ này, hình ảnh và thân phận những người máu mủ ruột rà của anh lại động lòng người đến vậy: bà - "bà mò cua xúc tép ở đồng Quan / bà đi gánh chè xanh Ba Trại / Quán Cháo Đồng Giao thập thững những đêm hàn", mẹ - "Mẹ ta không có yếm đào / nón mê thay nón quai thao đội đầu", cha - "ai thấy nữa ông già đầu bạc xoá / đẩy xe thồ ngang dọc lũng Tà Cơn"... và vợ. Duy dành cho vợ hẳn một tập thơ - tập "Vợ ơi" (1995). Việc này ở ta xem ra là độc nhất vô nhị. Cảm hứng về người yêu thì vô tận, cảm hứng về vợ lại dễ... cùng tận. Người ta vẫn kháo nhau rằng thơ cho vợ chỉ có độc một loại thôi: ấy là "thơ... vẹo". Nghĩa là "theo vợ" ấy mà! Nhưng Duy không thế. Thơ về vợ của Duy gợi ta nhớ đến Tú Xương. Cũng thương rát lòng, cũng đau thắt ruột, cũng cười ra nước mắt. Bà Tú xưa chênh chao ở mom sông, bà Tú nay chòng chành giữa phố: "Áo mưa vợ giăng cánh buồm giữa phố / Chồng với con mấp mé một thuyền đầy / Năm tháng bão giông sang sông lũ đổ / Một tay em chèo chống ngày ngày ngày". Có điều, ông tú đời nay không thể chỉ thương với hận suông. Mỗi khi bà tú đời mới lăn ra ốm, ông tú Duy (thực ra là ông cử) lập tức hoá thành ngựa thồ để lo đủ "việc thiên việc địa việc nhà / một mình anh vãi cả ba linh hồn". Gặp tai ương ập xuống làm cho sất bất sang bang, vì cuộc sống của thân nhân, anh đành phải cắt lòng bán bớt đi một ít vàng ròng để cứu khổ cứu nạn. Rồi thì vợ chồng cứ lầm lụi, chia sẻ nhau cái phận người của mình, với cái khổ thảo dân và cái đẹp thảo dân.

*
Vào thơ Duy mà chỉ nói chuyện tư tưởng, quan điểm mỹ học với lại hành trình sáng tạo cùng thế giới hình tượng vầy vậy không thôi, khác nào chỉ sắm được mỗi vai "triết gia quàu quạu". Nói chuyện tình nghĩa mà quên chuyện tình tang, thì e rằng khối tình kia hãy còn thiêu thiếu. Đơn giản vì cái tôi mà Duy sáng tạo ra quả là một thảo dân chánh hiệu, nghĩa là: cực nghiêm mà cực bụi (bụi dân sinh ấy bụi người đấy em), cực tình nghĩa mà cũng cực tình... tang. Trong bất cứ thi sĩ nào cũng có một gã tình nhân. Mỗi gã yêu theo một tạng. Thơ yêu của Nguyễn Duy thuộc tạng nào đây? Thì còn tạng nào ngoài tạng... tình tang. "Ai sinh ra thói tình tang / để ai hoá gió lang bang quê nhà. Ai làm ra lúng liếng sông / để đưa tu hú sổ chồng sang ngang". Dường như, trong hồn gã thảo dân này vẫn có một ngọn gió lang bang như thế, vẫn có một con tu hú như thế. Trách chi, Duy đã làm cả một "Bài ca phiêu lưu", dành một nhiệt hứng "hơi bị" trong lành để "lập thuyết" cho chuyện tình tang:" Xin em đừng nản lòng yêu / tình tang là cuộc phiêu lưu tuyệt vời". Tình tang đây có vẻ gần với lối phong tình dân gian, "lối huê tình" của người Quan họ. Suy cho cùng đó là những cảm xúc nhân văn, là nhu cầu thăng hoa, là những khoảnh khắc quên đi kiếp rong rêu bùn nước để lững lờ ngắm một vầng trăng, là "thêm chút sang bớt chút hèn / Nhìn em thôi đủ yêu em rất nhiều". Duy có cả một lý sự thảo dân cho cái đẹp và cho "tính hợp pháp" của việc thưởng ngoạn những cái đẹp trời cho: "hình và nét cũng có thì / cất làm chi giấu làm chi của trời / không em đời vẫn đẹp thôi / có thêm em nữa thì đời đẹp thêm". Vậy nên, ngẫm cho kỹ thấy Duy chủ yếu tình tang bằng mắt: "Yêu bằng mắt cũng là yêu / cõi đời đẹp đủ liêu xiêu cõi mình". Dường như cái đẹp luôn giữ ta trong một khoảng cách. Khoảng cách của nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy, vẻ đẹp được bảo tồn nguyên vẹn. Đành lòng, cầm lòng đôi khi lại là một ứng xử cao cả đối với cái đẹp vậy. Khi ấy, khát vọng thăng hoa thành cái nhìn bao luyến. Những nồng nàn luyến ái như muốn bao bọc đối tượng trong một bầu khí quyển ỡm ờ và mơn trớn: "Người con gái chợt qua đường / áo em mong mỏng màn sương núi đồi / Chợt rơi lại một nụ cười / và... sương rười rượi một trời phía sau / Đem nhan sắc tặng cho nhau / em giăng cái đẹp ngang cầu ban mai / chả riêng ta... chả riêng ai / để heo hút gió thở dài trên cây". Thăng hoa thành cái nhìn lơ đãng vờ: "tôi lơ đãng nhìn em nhìn lơ đãng / siêu nước pha trà vừa ấp úng sôi". Có phải "nguy tai" nhất là cái nhìn vòng vẹo: "Em e ấp nấp mình sau đá / để cái nhìn thành vòng vẹo quanh co"? Chưa đâu, "giết người" nhất, phải là cái nhìn không nói này cơ: "Sông Thao thêm một lần tôi tắm / thêm một lần tôi đến để rồi đi / gió cứ thổi trống không ngoài bãi vắng / tôi nhìn em để không nói năng gì"... Đúng là đàn ông yêu bằng mắt. ánh mắt phát sóng và phủ sóng. Mắt dù có tham lam táo bạo đến mấy cũng vẫn cứ là kênh giao cảm an toàn nhất, ít gây "xì căng đan" nhất. Ngay cả khi "đối phương" cảm thấy "nhìn ngắm còn tệ hơn sờ mó", nó vẫn dễ yên bề hơn cả. Bởi thế thơ yêu của Duy không thiếu nhục cảm, nhưng đều là nhục cảm từ thị giác thăng hoa thôi: "ối giời ơi... nõn nà chưa / bột trinh bạch đấy trời vừa rây xong / hình như gò trắng phập phồng / bao nhiêu con gái ngủ trong tuyết dày"... Cũng bởi thế, trong thơ Duy, tình tang mà vẫn tình nồng, giây lát mà thiên thu. Những thoáng qua ngỡ trôi đi mà vẫn rơi về: "Yêu mến ạ xin đừng buồn em nhé / giòng nước trôi đi giọt nước lại rơi về"... Thì gốc của tình tang đây cũng vẫn là chuyện còn - mất cả thôi.

Từ đó, bèn có thơ rằng: thăng hoa... nào chỉ thăng hoa / tình tang thế mới gọi là... tình tang.

III.

Đọc Nguyễn Duy, theo liên tưởng ngang, ai cũng nghĩ đến vài tay bút nổi nhất của thế hệ thơ chống Mỹ. Còn theo chiều dọc, tôi lại thích liên tưởng đến Nguyễn Bính. Tất nhiên, chả phải nhằm tạo ra một cặp bài trùng: đằng ấy - "gã chân quê tiền chiến", đằng này - "gã chân quê đời mới". Cùng gốc quê đấy, nhưng khí xa nhau. Song, cứ đối sánh đôi chút, cũng có sao đâu! Bính là cái tôi lỡ làng- sinh bất phùng thời, Duy là cái tôi thảo dân - thời nào cũng sống. Bính đoái thương các thân phận lỡ dở, Duy nổi chìm với thập loại chúng sinh. Bính là con chim lìa đàn, Duy là hạt cát lang thang. Bính kiêu bạc mà sầu tủi, Duy cỏ giả mà kiêu sang. Bính lang bạt tìm kiếm mình, Duy lang bang phơi trải mình. Bính muốn giữ nguyên quê mùa, Duy thèm quê mùa thay đổi. Bính ái ngại đổi thay, Duy thiết tha đổi mới. Bính dị ứng thị thành, Duy hòa đồng thành thị. Bính chỉ hồn quê, Duy thêm hồn phố. Bính hoài cổ, Duy canh tân. Bính nâu sồng, Duy bụi bặm. Bính bi, Duy lạc... Chỉ riêng điều tôi sắp nói đây thôi mỗi vị cũng thuộc một kênh khác nhau ấy là giọng điệu.

Nói cho công bằng cả Nguyễn Bính và Nguyễn Duy đều đi ra từ nguồn dân gian. Giọng điệu dân gian như một con sông lớn với hai luồng chính là điệu than và điệu ghẹo. Có lúc chúng nhập vào, nhưng thường khi là tách ra thành hai chi lưu. Than thì tràn ngập trong hát than thân. Ghẹo lại tràn trề trong hát giao duyên. Than ưa kể lể lâm li, tủi hờn mùi mẫn. Còn ghẹo lại thích trêu tròng đùa nhả, cười cợt ỡm ờ. Đằng thì thán, đằng thì tán. Do cái tạng của mình thế nào đó mà gã chân quê tiền chiến ưa triền miên trong nước mắt của điệu than. Thỉnh thoảng cũng có ghẹo ỡm ghẹo ờ, nhưng thưa hơn, mờ hơn. Còn gã thảo dân đời mới này ngay lúc cực mủi lòng cũng chả thích than lâu. Trái lại, cái tạng của gã có vẻ khoái ghẹo hơn. Không chỉ ghẹo trong tình tang, gã ghẹo cả trong tình đời. Lối ghẹo dân gian vốn chỉ bóng gió vòng vo, đến gã đã đa dạng, đa thanh và đầy sinh khí hiện đại. Gã trêu hoa ghẹo nguyệt rõ khéo, mà nhạo thế bỡn đời còn điệu nghệ hơn. Giọng ghẹo được pha thêm chút bụi nữa đã tải được rất ngon lành những tâm tình ở đằng sau tâm tình thảo dân của gã. Bởi thế, cùng với những lời rất tươi sống, lối ghẹo của Duy quả là rất đời. Rất nhiều lối nói ngỡ chỉ trong quán xá vỉa hè, lúc lai rai, khi cà trớn thế mà vào tay Duy đã lập tức được hoán cốt, thoát xác. Người ta thấy cái hướng lớn của thơ hiện đại là đi gần tới cấu trúc của lời nói thường, là sáp mãi vào lời và tiếng đang từng giờ từng phút sinh nở trên cái giòng đời phồn tạp. Thì thơ Duy cập nhật rất nhạy những hơi thở hôi hổi của ngôn từ. Trước, lời thảo dân chỉ được hiểu là lời quê. Nay, lời thơ Duy bén duyên với cả lời quê, lời phố, lời bụi hơi bị ngon lành. Đôi khi có cảm giác đang được hưởng thứ gió tươi trên đồng đất, chứ không phải thứ gió lọc qua máy điều hoà, được chén thứ thực phẩm tươi sống trên sông hồ, chứ không phải bảo quản trong tủ lạnh. Trong lối ghẹo của Duy, có thể thấy lắm khía cạnh thú vị đến quái quỷ của tiếng Việt đã được đánh thức và truy nhập vào ngôn từ thơ: "sọ dừa gặp vấn đề trì trệ / tri thức nhồi vào tri thức cứ phòi ra / mắt vấn đề toét tai vấn đề ù / bất an vấn đề giấc ngủ / sâu rầy đang vấn đề cánh đồng / rừng cây vấn đề cháy và trụi / trẻ lang thang vấn đề bụi đời", "Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi / người cười nói xúc phạm người ngậm tăm / siêng làm xúc phạm phàm ăn / kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng / đàn kêu tưng tửng từng tưng / con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu / đàn kêu tinh tỉnh tình tinh / cái tâm xúc phạm cái hình vô tâm / ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi / người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau", "Chân mây hơi bị cuối trời / em hơi bị đẹp anh hơi bị nhàu"... Xài được lối ghẹo này quả không dễ. Nó khác nào đang xúc phạm những thị hiếu hàn lâm, xúc phạm thứ ngôn từ đóng hộp trong những quy chuẩn xơ cứng. Kẻ bị xúc phạm hẳn đã mỉa: tưởng gì, đó là cái thứ vỉa hè bụi đời. Duy không chấp, chỉ nhắc nhẹ một chân lý giản dị mà thâm thuý này thôi: "đừng chê anh khoái bụi đời / bụi dân sinh ấy bụi người đấy em". Làm sao lại né tránh bụi, khi bụi vốn thuộc về cuộc đời này, khi bụi thuộc về đời nhọc nhằn bùn đất của thảo dân. Và con người là gì, nếu không phải là hạt bụi mang tư tưởng! Những gì thuộc về con người đều không xa lạ với một nghệ sĩ. Là một thi sĩ thảo dân, tìm được thứ ngôn từ dính bụi mà lấp lánh chất phônklore thế, khác nào như thợ đào dưới hầm tìm thấy được đá đỏ. Có phải ai cũng thấy được rubi trong đất bụi đâu. Có phải ai đãi cát cũng tìm được vàng đâu. Trái lại, khối người cầm vàng mà cứ ngỡ thau, rồi đem thử lửa khiến đau lòng vàng. Thì cứ việc thử đi, thử lại mà xem, ngay trong mỗi tiếng ghẹo đời kia có phải đều ẩn giấu một giọt lệ se lòng, một hạt muối xót lòng không? Tiếng cười ghẹo đời lắm khi chỉ là phía thấy được của giọt lệ đau đời đó thôi. Nó là cái cực nghiêm ẩn sâu trong những lời đùa, lời bụi vậy. Song, nói đi cũng cần nói lại, không phải không có những lúc thơ Duy bụi mù quá ngứa cả mắt, rụi mắt nhìn mãi mà vàng và rubi cứ... trốn biệt tăm.


Trước kia, Nguyễn Duy sính lối chính luận nghiêm nghị khắc khổ. Các triết lý lúc bấy không phải không sâu sắc. Nhưng nghe cứ thế nào. Có lẽ vì thế mà sau này Duy đã tự cáu về sự lẩm cẩm của mình: "Ta quàu quạu học đòi triết gia táo bón / những câu thơ nhăn nhó nhọc nhằn". Duy muốn cạch lối ấy. Tất nhiên, Duy chả dại gì mà từ bỏ cái ham mê chiêm nghiệm triết lý của mình. Mà cũng không bỏ được, vì hoạt động sáng tạo chân chính nào rồi cũng đi đến triết học, cũng lắng thành triết lý. Có điều, Duy đã xài thứ ngôn từ hồn nhiên, cùng lối ghẹo hơ hớ chất phônklore của đời, nên triết lý giờ đây đời hơn, thảo dân hơn. Nghĩa là nó nôm na mà sâu sắc, sâu sắc mà thật nôm na, chả cần vẻ gì là lên giọng lý sự. Mà lại chạm đến những điều cốt lõi của cõi nhân sinh: "Hình và nét cũng có thì / Cất làm chi giấu làm chi của trời", "Có gì lạ quá đi thôi / khi gần thì mất xa xôi lại còn", "Ta đi trọn kiếp con người / cũng không đi hết mấy lời mẹ ru", " Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội / Có một miền quê trong đi đứng nóí cười", "Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ", "Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / phe nào thắng thì nhân dân đều bại", "Bao nhiêu là bóng siêu nhân / khuất trong bóng cỏ giữa trần gian thôi", "Hiểu cho nhau sống đã là phiêu lưu", "Em như gạo điệu múa kia là rượu"... Kết tinh từ những tâm tình ở đằng sau tâm tình, có thể coi đó như những minh triết thảo dân vậy.

*
Tôi dành phần cuối cho cây đàn bầu của gã thi sĩ thảo dân này. Cây đàn cũ xưa nhưng là thứ hương hoả của ông bà tổ tiên bao đời để lại. Nó dễ gần mà chẳng dễ chơi. Nói thế, là tôi đã mượn hình ảnh "xẩm ngọng" của Duy để nói về thể lục bát. Thì Lục bát cũng là một thứ đàn bầu chứ sao! Trôi nổi mấy nghìn năm trên đồng ruộng sông hồ làng quê xứ sở, lại qua tay những Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu..., có lúc cây đàn này đã bị coi là cũ kỹ còm cõi, khó mà tải được nhưng tâm tình của người hiện đại. Khối người đã bỏ nó. Nhưng Duy đã nhặt lấy mang về ôm ấp, chăm nuôi. Tựa như gã Aladin nhặt cây đèn về từ đống đồ cũ nát. Có điều, anh chàng xứ Batđa chỉ vô tình. Còn gã "làm nghề mộng du" xứ Thanh này thì cố tình. Đã là thi sĩ thảo dân ai nỡ hững hờ với lục bát cho đặng. Và không chơi lục bát sao có thể gọi là thi sĩ thảo dân. Duy không hững hờ. Duy phải lòng lục bát. Duy thấy giữa mình và lục bát biết bao nhiêu nghĩa cũ càng: "Câu thơ sáu nổi tám chìm / đụng thời xa lộ thông tin kẹt đường / vương thì tội bỏ thì thương / đành lê thê nốt đoạn trường mộng du". Vì thế, Duy bền lòng chung thuỷ: "cứ bèo bọt bước thiên di / đưa chân lục bát mà đi loằng ngoằng". Thực thì, lục bát vẫn được coi là hơi thở của thảo dân (câu sáu hít vào câu tám thở ra chăng?). Trong tay Duy chẳng những nó được làm mới mà còn lẩy lên được cả những tâm tình ở đằng sau tâm tình. Và rồi, cũng hảo tâm như thần đèn, thần đàn đã luôn đền bù cho Duy một cách hào phóng. Cây đàn này của Duy chơi điệu mới, nhịp mới, hồn mới. Giai điệu lục bát của Duy có cổ điển, có dân gian. Nhưng phần chịu chơi nhất vẫn là phi cổ điển. Giai điệu vốn nghiêng về êm đềm như ru của lục bát được nhiều thế hệ ra tay cải biên để nó xích lại gần hơn với lời nói thường. ở thời của mình, Duy cũng tỏ ra rất sành chơi. Vừa mở ra một thế giới "cơm bụi" cho thơ, Duy vừa "cơm bụi hoá" lục bát. Nghĩa là đưa lục bát về gần với cuộc sống trần ai vốn đầy bụi dân sinh của thảo dân thì hiện tại. Duy mạnh tay đốc quân, đưa những lời nói, lối nói đời mới xâm nhập vào cấu trúc lục bát, khiến nó phải nới mình ra, dàn xếp lại, tìm đến những dạng hài hoà cũng theo lối mới. Điểm ngắt nhịp trong lục bát giờ đây không nhất thiết cứ phải là nơi gặp gỡ của cả hai yếu tố: điểm dừng cú pháp và điểm dừng ngữ lưu. Mà có thể tách nhau. Khiến cho hơi lục bát có thể tràn lướt qua mỗi điểm, đặng cất lên những nét nhạc mới, ngay lúc còn lạ tai đã thấy khoái tai, khi đã quen tai rồi thì rõ là thú vị: "Thắng rồi - trận đánh thọc sâu / Lại về với mái tăng - bầu trời vuông", "Làng ta lại lóp ngóp làng / Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng"... Vật liệu thuận nhất với nhịp chẵn của lục bát thường là từ đơn và từ đôi. Tuân theo thế thì an toàn. Nhưng an toàn thì sao có thể cách tân. Với tạng phiêu lưu của một tay bút dám chơi, Duy rất khoái dùng chùm ba, chùm bốn, đặc biệt là những từ láy kềnh càng. Thế mà anh vẫn dàn xếp ngon ơ: "ở đây có những người con / mang theo cái nõn nòn non lên ngàn", "đến đây gió cũng đi vòng / ngoằn theo khoeo núi ngoèo trong khuỷu rừng", "ngứa nga ngứa ngáy cỏ may trong lòng", "yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa","đủ phờ phạc đất đủ lao đao trời", "Thấp tha thấp thoáng tháng ngày mong manh"... Kỳ nhất là, nhiều lúc, ngữ âm của các chùm ba chùm bốn ấy cứ láng cháng lanh canh, va cụng nhau như đùa nhả, như trêu cợt mà gợi ra được cả những cảm giác, những tâm tư như cái bóng cứ chờn chợ ngoài ngôn ngữ. Đây là cái cảm giác Boston: "Bia lon thỗn thện người lon / ễnh ềnh ệch hõn hòn hon thùi lùi / Trắng vàng đen láng coóng đùi / Ngo ngoe ngứa nỗi buồn vui không màu"... Bằng cách chơi chữ lai rai, chọi chữ dài dài, Duy cũng đem lại cho âm điệu và nhất là hình thức tiểu đối quen thuộc của lục bát một kiểu dáng đời mới, bảo rằng cân xứng mà tinh nghịch cũng phải, hay bảo rằng tung tẩy mà trang nghiêm lại còn phải hơn: "vô tư như thực như mơ như gì", "không ngây không dại không đành phải không", "làng như làng mạc thuỷ tề / em như em giữa bốn bề thuỷ tinh", "mùi hoang dại cỏ gợi hoang vu người", "nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi / người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau", "Em bây giờ có còn như bấy giờ", "thôi ta về với mình thôi / chân trời đành để chim trời nó bay", "trông người xưa ngẫm người nay"... Không mượt mà ngân nga, cũng không dồn toa trúc trắc. Mà như nói, như không. Ngẫu hứng mà gia công, gia công mà ngẫu hứng, ấy mới thực là thứ lục bát giàu sinh lực: "Tự dưng nhớ thật nhớ thà / nhớ con đường chả đi qua bao giờ... tự dưng nhớ nước chưa mưa / thật thà lúc lắc đong đưa thật thà", "Em đi bỏ lửng cánh đồng / xơ gan hạt lúa nát lòng củ khoai / rạ rơm bạc phếch tóc dài / hai mà một một mà hai một mình"... Có lẽ bản lĩnh của lục bát Nguyễn Duy là ở đấy, cứ như vũ nữ trên dây, lắm lúc tưởng bước chân nhón đi trong vũ điệu thơ sắp khuỵu xuống hoá thành vè đến nơi rồi, thế mà vẫn không, vẫn cứ lúc lắc đong đưa thế, vẫn cứ thơ thế. Duy đã thổi hồn của thế hệ mình vào đó, đã đưa được hơi thở chúng sinh thì hiện tại vào đó. Nó không chỉ có hồn cổ, hồn quê, mà còn cả hồn phố. Vì thế, nó khỏe khoắn, nồng đượm, tân kỳ. Nó là rượu chúng sinh đựng bằng lục bát. Nó là Duy. Nghĩa là, dù Duy vẫn dùng cả những thể khác, nhưng chỉ ở lục bát, thân thủ của anh mới phô hết những cao cường, chỉ ở lục bát, hồn vía Nguyễn Duy mới dậy men nổi gió làm"trời lao đao đất lao đao lừ đừ" đến thế. Vậy nên, hiện Duy có tuyên bố ngừng thơ, thì chỉ nên hiểu là ngừng làm thơ, chứ không ngừng sống thơ. Với Duy, ngừng thơ ắt là ngừng thở. Một ngày kia nếu gã thi sĩ thảo dân này cho ra bài thơ mới, tôi dám cược một ăn mười rằng bài ấy tất phải là lục bát.

Văn chỉ, đầu hè Nhâm Ngọ
(Đã in trên tạp chí Nhà văn, số 2, 2003 nhân Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất) 
Nguồn: VnExpress 








Không có nhận xét nào :