Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

TRỊNH SƠN - CHÂN DUNG NGƯỜI NGHỆ SĨ TRẺ TUỔI

Phan Tuấn Anh
Tiến sĩ ngữ văn - Nhà phê bình văn học - Nhà thơ

Phan Tuấn Anh (Bút danh khác: Yến Thanh) sinh năm 1985 tại Huế. Hiện giảng dạy tại Khoa Ngữ văn - Đại học Khoa học Huế.
Đã in: Người ngủ muộn (Thơ), NXB Thuận Hóa, 2008. Đoản khúc (Thơ), NXB Văn học, 2013. Gabriel Márquez  và nỗi cô đơn huyền thoại (Chuyên luận), NXB Văn học, 2015
 Nhà phê bình văn học - Nhà thơ - Tiến sĩ ngữ văn Phan Tuấn Anh đã đoạt các giải thưởng: Giải Nhì Sinh viên nghiên cứu Khoa học toàn quốc 2007. Giải Nhất Tài năng Khoa học trẻ Việt Nam 2012. Giải Tác phẩm xuất sắc của Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên - Huế 2013. Và nhiều giải thưởng khác.


Tôi hay nghĩ lẩn thẩn, rằng, Thơ và nhu cầu đổi mới, quá trình tiếp biến liệu có liên đới gì với cái sự răng đen răng trắng. Cái hồi trên trăm rưởi năm trước, khi An Nam chúng ta chưa có mấy anh Phú - lang - sa chiếm làm thuộc địa thì cái răng đen giằng co giữ muôn năm và răng trắng "tây học" chống muôn năm ra sao nhỉ. Lúc cụ cố gái, cụ cố trai nhà tôi rộn ràng guốc gộc áo the khăn đóng quần không đáy răng nhóng nhánh hạt na, vân vân và vân vân thì, câu mợ tôi tất cũng vậy. Đẹp không? Đó là định hình, là thẩm mĩ, là khuôn mẫu của một thời. Rất đẹp chứ. Sao lại không! Thế nhưng, các chị gái tôi thì dần dà không chịu nhuộm răng, không chịu váy sồi áo yếm . Các chị tôi lẳng lặng lén sang tân thời. Các anh tôi thích hớt tóc ngắn, sơ mi quần tây, mặc cậu tôi "tẩn" cho nhiều phen kinh hãi, vẫn nhất quyết không củ hành củ tỏi búi tó áo the. Ấy vậy mà tính bằng mấy đời người, nhỉ? Lại nhớ cái đận ông Nguyễn Đình Thi thực hành và cổ súy thơ không vần có dễ cách nay ngót bẩy mươi năm chứ ít gì. Cứ tưởng ông botaycom. Không, mặc cái sự khoác vào đủ sẵng ngọt lý thuyết truyền thống này kia, hay bút chiến ca nông đại bác, ông vẫn âm thầm cho nhu cầu đổi mới thơ, trước hết, của chính ông. (Cũng chẳng riêng ông. Tất nhiên là vậy). Đến khi núi bút núi mực của cả học giả lẫn học thật người ngợi ca, kẻ ăn theo một số thành công và tinh thần cấp tiến thi ca của Nguyễn, thì ông đã cưỡi hạc cười cười ở trời khác.  Thì ra cái sự răng đen răng trắng, thơ không vần hay cứ trói buộc khư khư với vần vèo... sẽ còn vật vã, huống hồ là tiếp cận các xu hướng, các trường phái v.v.. Sao ta khó chịu con cái ta nó không mãi nói "con chào bố" mà thay bằng "hello bố". Cụ tú thành Nam, than: " Thôi xin lạy mợ săng căng lạy/ Mả tổ nhà tôi không viết bút chì". Cụ tú mà sống đến thời chắt chít nhà cụ gõ phím máy tính làm thơ, rồi tân hình thức, rồi hậu hiện đại... chắc cụ cáu lắm, hay vui mừng nhỉ? Tất nhiên, chuyện viết bút lông, viết bút chì, "viết" máy tính đem ra làm cái cớ bàn về dòng chảy đổi mới và cuộc tiếp biến tất yếu của Thơ thì cũng có khi nên và đáng khi ngược về cuộc "trường chinh" răng đen răng trắng.
 Được sự đồng ý của Nhà phê bình - Nhà thơ - Tiến sĩ Ngữ văn  Phan Tuấn Anh, tôi trân trọng giới thiệu với các bạn văn, cùng độc giả bài viết của của anh. Với cá nhân tôi, bài viết "TRỊNH SƠN - CHÂN DUNG NGƯỜI NGHỆ SĨ TRẺ TUỔI" rất khoa học, kĩ lưỡng và ăm ắp học vấn của Phan  -  Một tài năng uyên bác và rất trẻ viết về một nhà thơ tài năng rất trẻ - đã giúp tôi rất nhiều khi tiếp cận và tiếp nhận những tác phẩm của các tác giả trẻ đương đại đang ngày một bứt lên, dấn thân trên hành trình gian nan, mở ra và mang đến cho thi ca vẻ đẹp mới.

Hoàng Quý

PHAN TUẤN ANH
 "Thơm tay em vẽ con đường
Bước nghiêng bước ngả bình thường mà điên..."
[Cho hai lần về]



1 Trịnh Sơn - Thơ như là hành vi sống trải


Trong khoảng năm năm qua, Trịnh Sơn là một giọng thơ mới mẻ nhưng dõng dạc bừng cháy trên thi đàn như một loài phượng hoàng lửa dữ dội. Tập thơ đầu tay của anh với tựa đề ngắn gọn Thơ [Nxb Hội nhà văn, 2010 – mọi trích dẫn thơ nếu không chú thích gì thêm thì đều từ nguồn này, mọi nhấn mạnh được in đậm đều là của tôi] ra đời ngay lập tức đã gây nhiều sự chú ý trên văn đàn “như một niềm kinh dị”. Đọc thơ anh, có cảm giác như đang va chạm với trữ lượng cảm xúc bức xạ của mặt trời, cứ cháy thảng thốt, mãnh liệt. Thực hành sáng tạo thơ của Trịnh Sơn khác với một số nhà thơ khác, nhất là những nhà thơ trẻ, anh không ngại va chạm, gây hấn với mọi thiết chế, mọi điều anh nghĩ là phi lý, bất công nhằm thực hành thái độ trí thức, thái độ thi nhân của mình. Thơ Trịnh Sơn ngay từ đầu, đã gai góc, đa diện chứ không đơn thuần là thứ thơ trữ tình cất ngăn bàn dùng để tán tỉnh, khóc tình, hay giản đơn là làm nhật kí cảm xúc tuổi xanh. Có thể thấy, Trịnh Sơn dùng thơ ca như một tuyên ngôn sống, chính xác hơn, anh sống trải trọn vẹn trong thơ. Đọc thơ Trịnh Sơn, điều đầu tiên mà bạn đọc (nhất là những bạn đọc chuyên nghiệp) có thể hình dung ra đó là khuôn mặt cảm xúc, chân dung tâm hồn của người thơ, và hơn thế, đó còn là quan niệm về thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung của tác giả. Trịnh Sơn như vậy không dùng thơ ca như một phương tiện trữ tình, mà lấy bản thể nghệ thuật thơ ca làm đối tượng khảo sát. Sự ý thức sâu sắc, tự giác về sứ mệnh và đặc tính thơ ca của Trịnh Sơn làm cho việc giải mã anh phức tạp hơn hẳn những nhà thơ “toàn tính”, bởi ta phải vừa đối diện với thi nhân Trịnh Sơn, lại vừa phải va chạm với nhà lí thuyết thơ Trịnh Sơn.

Ngay bài thơ mở đầu của tập thơ với tựa đề Cô độc, Trịnh Sơn đã ý thức rõ ràng vai trò quan trọng của thơ đối với anh: “Tôi trình bày cuộc đời mình bằng Thơ – Nhọc nhằn phù hoa nhẹ nhàng cái xuống dòng” [tr.11]. Diễn ngôn thơ ca như vậy là không gian sống của thi nhân, là nơi hắn trú ngụ, tồn tại và kiến tạo nên khuôn mặt chữ nghĩa cho/về mình. Bên ngoài địa hạt của chữ, nhà thơ sẽ chết bởi nói như Lê Đạt, “chữ bầu lên nhà thơ”. Trịnh Sơn hình dung “thế giới như là văn bản”, ở đấy thơ là một hành vi tồn tại tất yếu của con người như ăn, uống, thở và tuần hoàn. “Cuộc đời tôi chỉ là trang giấy trắng – Lấm tấm thơ cần mồ hôi và nước mắt để xanh ngời” [Cô độc, tr.12]. Nhà thơ thông qua hành vi viết lách của mình mà gieo mầm sự sống. “Anh sẽ làm thơ như kẻ quê mùa gieo hạt – lúa nứt chồi gốc rạ – sự sống nảy mầm trên cái chết” [Nhà mình không có vườn, tr.17]. Trịnh Sơn có một quan niệm khá lạ về thơ của chính anh, nó liên quan đến dáng vóc hình hài của thơ, đó là những câu thơ quá gầy. 

- Em đừng xa xót khi đọc thơ anh
Những câu thơ quá gầy…
Những câu thơ quá gầy
Như cuộc đời anh vậy [Tuổi trẻ, tr.31].

Sự “gầy” trong thơ Trịnh Sơn mang thân phận của chính anh, một tuổi trẻ và cuộc đời khốn khó, thiếu ăn. Qua bài thơ Tuổi trẻ, chúng ta chợt hiểu tại sao anh lại phác vẽ nên những câu thơ quá gầy, bởi thơ anh mang hình hài và số phận của người làm nên chúng. Đó có thể là kí ức về “xanh xao chiếc giường tầng ký túc xá”, bữa ăn chỉ là “gói mỳ tôm lót dạ”, bụng thì đầy giun sán “mỗi năm sổ một lần”, đó là những câu thơ được viết nên trong không gian thum thủm thối của “nhà vệ sinh tập thể”. Qua những hình tượng này, ta có thể nhận ra thơ Trịnh Sơn không có gì là quá khó hiểu, quá tân kỳ, mà thực ra tính “hiện thực” của nó hiện ra khá rõ. Nhà thơ đã trình bày cuộc đời mình khỏa lộ, phơi mình qua thơ. “Những câu thơ lấm bùn – Tóc rối biếng lười tay vuốt” [tr.33]. Rất có thể, với những nỗ lực làm “gầy” hóa thơ ca, Trịnh Sơn muốn giải thiêng những chức phận cao/quyền quý của thể loại này, đưa thơ gần lại hơn với cuộc sống, buộc thơ phải dung nạp, va chạm và khắc họa đời sống ngay cả ở những góc trần trụi/truồng nhất. Để hiểu được điều này, chúng ta buộc phải lần giở lại lịch sử của thơ ca. 

Ngay từ thời trung đại, thơ ca đã là thể loại chính thống, nhất là thơ tụng ca. So với tiểu thuyết, truyện ngắn, hay văn học dân gian là tà thống, là ngoại biên thì thơ ca cùng với bi kịch và sử thi ở phương Tây và hịch, phú, chiếu, cáo… ở phương Đông là những thể loại ở trung tâm, chính/trường quy. Tất cả những Nho sĩ trí thức đều buộc phải đọc thơ, hiểu niêm luật thơ và làm được thơ, như một nhu cầu tất yếu bởi họ được dạy dỗ, thi cử, tuyển chọn và đánh giá năng lực qua khả năng thơ phú. Thơ trong thời phong kiến trung đại không đơn thuần là một thể loại văn học, chủ yếu dùng để giải trí và giao tiếp như ngày nay, mà là một phương tiện tỏ bày ý chí, thể hiện khả năng hành đạo của người quân tử. “Thi dĩ ngôn chí” chính là như vậy. Sau này, thơ ca cách mạng kháng chiến vẫn được đặt ở trung tâm, với chức năng dụng hành đạo đức, chính trị rất rõ. Sóng Hồng viết: “Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ – Những vầng thơ bom đạn phá cường quyền”. Hoặc Hồ Chí Minh nêu rõ trong Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi: “Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Đến thơ hậu hiện đại mà Trịnh Sơn là một ca điển hình, thì thơ bị gầy hóa, đời thường hóa và giải trung tâm tất cả những chức năng có tính chất thánh hóa mà nó đã từng đảm nhận trong lịch sử. Thế nên nhà thơ mới dặn dò người yêu kĩ lưỡng: “Em đừng đỏ mặt khi đọc thơ anh – Trụi trần tình yêu không bao giờ cần vỏ bọc” [Tuổi trẻ, tr.34]. Quá trình “gầy hóa” này sẽ dẫn đến một hệ quả là sự xuất hiện của một nền tảng mỹ học mới mẻ mà chúng tôi sẽ phân tích ở phần sau.

Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể dễ nhận ra thơ ca là một hành vi sống trải của thi nhân qua chữ nghĩa. Thực ra, thơ Trịnh Sơn không khó đọc, khó hiểu, nó chỉ khó tiếp nhận vào trong chiều sâu cấu trúc khó, nhận ra dụng ý rõ ràng, xuyên suốt mạch lạc, vì mỗi bài, hầu như luôn là một mê lộ chữ nghĩa trập trùng, dẫm đạp. Chỗ này, theo tôi điểm mạnh mà cũng chính là điểm yếu của thơ Trịnh Sơn trình hiện ra rõ ràng. Chính vì quan niệm thơ ca là cuộc đời, nên nhà thơ bày bộn trong thơ khá nhiều chi tiết, ý tưởng bất tương hợp, và cũng vì cuộc đời vốn là cõi ta bà hàng trăm ngàn thế giới, khóc khuất, nên cấu trúc bài thơ cũng đa tạp, nhiều tầng bậc, thậm chí mỗi bài thơ luôn có khuynh hướng giãn nới không gian, thời gian nghệ thuật và độ dài. Tôi lấy ví dụ, trong tập thơ có ít nhất ba bài (Tuổi trẻ, Scarlett áo xanh và Đứa bé) mang cấu trúc đa tầng bậc, được chia thành nhiều chương và có độ dài vượt quá khuôn khổ một bài thơ thông thường mà xâm lấn thể loại để trở thành trường ca. Bài Tuổi trẻ dài 10 trang, bài Scarlett áo xanh có độ dài 14 trang với 4 phần tách biệt và Đứa bé là 15 trang. Cứ trung bình 1 trang khoảng 24 dòng thì ta có xấp xỉ Tuổi trẻ (240 dòng), Scarlett áo xanh (336 dòng) và Đứa bé (360 dòng). Cả ba bài thơ này đều có tính tự sự, bao quát nhiều số phận trong một chiều thời trải dài. Tuổi trẻ miêu tả lại toàn bộ đời sống tinh thần và vật chất khốn khó thời trẻ của cái tôi trữ tình, cùng vô vàn những sự kiện chính trị, kinh tế, chiến sự của thế giới và trong nước, kết hợp với những “điển cố, điển tích” là những truyền thuyết, huyền thoại trong lịch sử. Phức tạp hơn, thi phẩm Đứa bé miêu tả lại số phận của một đứa trẻ và cả gia đình nhiều lần vượt biên, từ khi đứa bé còn nhỏ cho đến khi trưởng thành, từ khi lênh đênh trên biển đến nhiều lần bị phạt, bị bắt, ở tù, vượt biên thành công rồi gửi tiền về của các thành viên. Bài thơ động chạm đến không chỉ số phận của đứa bé mà rộng hơn, cả đại gia đình và thực ra là cả một nhóm người, một nhóm thân phận người Việt hậu chiến (sau 1975). 

Tất cả sự đồ sộ về độ dài (mười mấy trang) và dung lượng miêu tả (nhiều thân phận xuyên suốt gần hết cả cuộc đời) đã biến thơ Trịnh Sơn thành bản tường trình chân dung tinh thần con người hậu hiện đại Việt Nam và bức tranh toàn cảnh của thời đại. Trong hình hài của thể loại trường ca ấy, những đoạn thơ chuyển ý, kết nối giữa các khổ là hết sức ngẫu nhiên, và sự tương hợp các chương là theo kiểu phân mảnh, mảnh vỡ của chủ nghĩa giải cấu trúc nên người đọc lại càng bị thách thức trong quá trình tiếp nhận. Ví dụ, trong Tuổi trẻ, áp dụng tu từ học (Rhetoric) trong khoảng hai trang đầu [tr.31-32], cái tôi trữ tình lấy chủ thể trò chuyện là em (Em đừng xa xót khi đọc thơ anh), nhưng cuối trang thứ hai [tr.32] trở đi thì cái tôi trữ tình lại chuyển sang trò chuyện với người nghe khác đó là mẹ (Mẹ ơi), sang [tr.34] lại chuyển về trò chuyện với em, đến trang cuối [tr.40] thì lại chuyển về trò chuyện với mẹ. Bài thơ là sự kết tụ cuộc đời thường nhật, nghèo khó của cái tôi trữ tình, nhưng kết hợp với vô vàn huyền sử, huyền thoại, truyền thuyết, các tác phẩm văn học khác như Dế mèn (Tô Hoài), Mỵ Nương, Trương Chi, Lạc Long Quân và Âu Cơ, cùng các sự kiện chính trị, chiến sự thế giới và Việt Nam như đánh bom ở Trung Đông, Bô Xít ở Tây Nguyên, bão lũ, dịch bệnh… Chính lối trò chuyện đa đối tượng người nghe, việc cấu trúc bài thơ cũng theo lối tự sự, và các chi tiết, sự kiện đưa vào thơ cũng theo lối trần tục, đời thường (ngồm ngoàm miếng bánh ngon, xe vượt đèn đỏ, nhà vệ sinh tập thể…) chứ không bóng bẩy, trữ tình đã khiến thơ Trịnh Sơn có tính chất tiểu thuyết. Nhìn chung, tôi nghĩ rằng lối cấu trúc, trình bày này đặt người đọc trong những ma trận chữ nghĩa phức tạp khó tiếp nhận, đôi khi dẫn đến phản tiếp nhận bởi sự rối bời và khó nhận biết chủ/dụng ý nghệ thuật. Tuy nhiên, đó là một thủ pháp hậu hiện đại có ý thức, mang quan niệm thẩm mỹ riêng của Trịnh Sơn. Nhà thơ thông qua sự giãn nới dung lượng và độ dài, kết hợp với sự trần thuật hóa, trần tục hóa chi tiết, hình tượng thơ, đã tạo ra những chỉnh thể phân mảnh giải trung tâm, hay chính xác hơn là đa trung tâm kiểu hậu hiện đại.

Trong thơ Trịnh Sơn, có thể thấy sự quan tâm đến thân phận đời tư của mỗi con người, mỗi cá nhân được cắt nghĩa trong thơ như một thực thể độc lập, chứ không phải là một đại diện cho giai cấp, tầng lớp người rộng rãi. Trịnh Sơn đặc biệt quan tâm đến những thân phận bên lề xã hội, những người thấp cổ bé họng, bị chà đạp trong sự trầm lặng dữ dội của cuộc sống đời thường. Anh đặc biệt chú ý đến những cô gái điếm, bởi họ vừa là nạn nhân, lại vừa là tệ nạn của xã hội hậu hiện đại. “Hồng hồng nhan nhan Tô Thị – Đêm đêm tôi đếm những nàng Tô Thị đợi ánh đèn xe ngừng lại – Ngừng lại – Thừa thãi – Ngã giá” [Thủ đô, tr.78]. Bên cạnh đó, những nghệ sĩ, những thi nhân như chính Trịnh Sơn cũng được anh quan tâm, khi mà giá một ổ mì ở sân bay bằng chính giá (nhuận bút) của một bài thơ đăng báo (Viết theo người tình xưa vừa xa). Trong cái thế giới ấy, họ sống bằng niềm tin: “Khỏa lấp đói nghèo bằng niềm tin – Khỏa lấp nỗi buồn bằng hi vọng” [Đứa bé, tr.109]. Một khi niềm tin ấy cạn kiệt, họ buộc phải vượt biên nhằm đi tìm một thiên đường sống mới. Đứa bé là một bài thơ dài, chứa đựng nhiều suy tư về thân phận con người trong thời hậu hiện đại. Bài thơ kể về số phận của cả một gia đình, rộng hơn, cả một thế hệ người từng khát khao đổi đời bằng những cuộc vượt biên lênh đênh trên biển nhằm sang Mỹ. Nhưng thiên đường thật cay đắng, bởi sau những cuộc ra đi đổi bằng máu, nước mắt, tù tội, người Việt (người chị) ở xứ sở xa xôi phải sống tủi nhục, bị chà đạp: “Đổi bằng cả đời con gái chị nó lăn lộn với Tây với Tàu với Tuyết – Làm cu li làm gái điếm làm ăn cắp” [Đứa bé, tr.113]. Nhà thơ kêu gọi một cái nhìn nhân văn mới mẻ, không phân biệt, kì thị sau khi những cuộc chiến tranh đã đi qua.

- Mày theo cộng sản?
- Con có biết Cộng sản là gì đâu
Con yêu đất nước [Đứa bé, tr.113].

Từ tất cả những nhận thức thân phận đời tư nói trên, giúp Trịnh Sơn đi đến những sự phản tư cần thiết trước các đại tự sự của thời đại. “Nhận ra người điên thì dễ – Nhận ra mình điên, lại khó” [Đứa bé, tr.117]. Bởi thế hệ của anh là thế hệ được sinh ra trong môi trường toàn cầu hóa, đất nước chuyển mình từ mô hình bao cấp cũ sang kinh tế hàng hóa thị trường, kéo theo biết bao biến động về tâm tư tình cảm và quan hệ xã hội. “Cả cuộc đời chúng ta – Ruộng bậc thang ngang thềm thế kỷ” [Tuổi trẻ, tr.35]. Lúc này, những giá trị cũ dần mất đi quyền năng nhưng vẫn còn quyền lực: “Có tượng đài nào không in bóng xuống chân mình – Về phía ngược sáng” [Scarlet áo xanh, tr.105], nhưng giá trị mới vẫn còn chưa được xác lập từ đó tạo nên một sự hỗn mang giá trị. “Mua vé vào xem Khổng Tử ngậm cười – Trên bàn thờ Nho có những đồng bạc lẻ – Vài cô cậu sinh viên sờ đầu rùa… - Tôi bắt chước sờ đầu rùa – Mười ngón tay cóng lạnh – Bóng linh thiêng luôn có sức mạnh” [Thủ đô, tr.79]. Cái cô đơn hậu hiện đại lúc này hiện ra, do Chúa đã chết và con người buộc phải tự chịu trách nhiệm với chính hành động của mình. Con người với con người không phải lúc nào cũng có thể yêu thương, chia sẻ. Họ tồn tại cạnh nhau, nhưng ngày một cách xa: “Đêm nay – Tôi ngồi một mình – Không em – Không thơ – Chỏng chơ chiếc điện thoại hết tiền – Chỉ có thể nghe – Mà không ai gọi” [Cô độc, tr.12]. Tôi xem đó là những câu thơ xếp vào loại hay nhất trong tập thơ đầu tay của Trịnh Sơn, vì nó phác thảo đúng và đủ khuôn mặt tinh thần mà con người và thế hệ anh đang sống.

Tuy nhiên, thơ Trịnh Sơn không chỉ phác thảo nỗi cô đơn, sự đổ vỡ trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân, mà còn thực hành chức năng xã hội của nó một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Tôi đồ rằng, trong số những nhà thơ trẻ nói riêng và những nhà thơ thành danh đầu thế kỷ XXI nói chung, Trịnh Sơn là nhà thơ có sự quan tâm thường trực nhất đến vấn đề biển Đông cũng như chủ quyền biển đảo đất nước. Thơ Sơn khi viết về biển đảo thường mạnh mẽ, dữ dội, quyết liệt những cũng đầy ưu tư, lo lắng trước vận mệnh nước nhà. Có lẽ, trong hoàn cảnh cả đất nước hướng ra biển, thơ ca cũng tìm về đại dương như những đứa con theo người cha Lạc Long Quân, dẫu vậy thì thơ Trịnh Sơn vẫn là một tiếng nói khác lạ, ẩn chứa nhiều sức mạnh lôi cuốn người đọc. 

- Rủ nhau ra biển
Tắm đầu
Tắm tay chân
Tắm một màu máu Nam [Rủ nhau ra biển, tr.28].

Sự ám ảnh hình tượng biển trong thơ Trịnh Sơn như một cổ mẫu (archetype) đầu tiên cần xét đến bởi không gian sinh quyển mà nhà thơ sinh sống. Chẳng phải nhà xã hội học Hippolyte Taine nhấn mạnh ba yếu tố chủng tộc, hoàn cảnh, thời đại khi phân tích văn học. Do đó, không gian biển (tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) mà Trịnh Sơn sinh sống rõ ràng đã quy định đề tài, hình tượng và rộng hơn là không gian suy tưởng và tính chất khoáng đạt, dữ dội trong giọng điệu thơ anh. Tính chất biển này, khi đối diện với những vấn đề đại cuộc của dân tộc về toàn vẹn lãnh thổ, do đế quốc phương Bắc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải dương 981 lên thềm lục địa nước ta vào năm 2014, đã thực sự kết tinh và thăng hoa trong thơ Trịnh Sơn. Biển lúc này chính là chủ đề giúp nhà thơ thực hiện chức năng xã hội của mình, và qua đó anh được phép tồn tại như một trí thức yêu nước, một thành viên không thể tách rời của xã hội. “Em đứng giữa đất trời quê hương thấy sóng nhảy trên thềm thế kỷ – Con đường nào cũng sóng – Con đường nào cũng sông – Con đường nào cũng biển” [Scarlet áo xanh, tr.101].

Tóm lại, bởi vì quan niệm về cuộc đời và tồn tại là hỗn độn (chaos), là những hiện tượng ngẫu nhiên chứ không phải theo qui luật nhân quả, nên thơ hậu hiện đại nói chung và thơ Trịnh Sơn nói riêng có độ dài và kết cấu, lập ý hết sức phức tạp, đa tầng bậc. Ngôn từ cũng chính vì thế mà ngồn ngộn, ngang tàng và phong nhiêu. Bởi vì, thơ ca và đời sống lúc này được gắn liền, không thoát ly hiện thực như thời Thơ Mới, nhưng cũng không phản ánh cơ học, mang tính trần thuật như thơ ca cách mạng, nên tính dụng hành của nó được nhấn mạnh. Nhà thơ sống trải trong thơ, nhưng thơ không đối lập, xa lánh cuộc đời. Thơ lúc này đã thực sự “bẩy đời lên và bẩy tôi lên”, đúng với tuyên ngôn:

- Anh bắt đầu làm những câu thơ không bóng tối
Scarlet áo xanh đêm biếc như ngày
Anh bắt đầu làm những câu thơ ban mai
Mặc trời mọc lên từ đốm lửa [Scarlet áo xanh, tr.89]


2. Thơ Trịnh Sơn và quan điểm mỹ học hậu hiện đại

Đọc thơ Trịnh Sơn, bạn đọc phải đứng trước những sự kiểm chứng về tầm đón nhận, những ai chưa bước qua được hệ hình hậu hiện đại sẽ bị bỏ lại phía sau. Về cơ bản, để đọc và có thể thích được thơ Trịnh Sơn bạn đọc phải trang bị cho mình một quan điểm mỹ học mới mẻ của hậu hiện đại. Lâu nay chúng ta thường quan niệm rằng thơ ca phải lấy cái đẹp làm trung tâm thẩm mỹ, thơ ca là phải có nhạc tính, vần điệu du dương, hoặc thơ ca phải có chức năng dụng hành xã hội, cải biến xã hội kiểu (“thi dĩ ngôn chí” hay “những vầng thơ bom đạn phá cường quyền”). Những quan niệm mỹ học tiền hiện đại này không hề sai và cũng không hề phi/phản giá trị, nhưng thực ra chúng chỉ thuộc về thơ ca trong một số giai đoạn (phong kiến, kháng chiến), một số thể loại (thơ lục bát, thơ Đường luật), hoặc một số hệ tư tưởng, hình thái kinh tế xã hội (Nho giáo phong kiến, xã hội chủ nghĩa giai đoạn kháng chiến). Những người có kiến văn bao quát và uyên thâm về lịch sử phát triển của thơ ca đều hiểu rằng thơ vần điệu, hoặc thơ lấy cái đẹp làm trung tâm thẩm mỹ chỉ là một giai đoạn trong lịch sử phát triển của thể loại, chứ không hề là đặc tính thẩm mỹ khởi nguyên, mang tính bản thể hay có sự thống nhất qua mọi giai đoạn. Thơ theo Khế Iêm xuất hiện từ cách đây 5000 năm tại nền văn hóa Mesopotamia, và vốn phục vụ cho những mục đích tôn giáo. Thơ vần điệu tại phương Tây chỉ xuất hiện vào thời Anglo - Saxon (Thơ Old English Poetry) và từ thế kỷ 15, thơ không vần (black verse) do nhà thơ Surrey (1515 - 1547) đã xuất hiện[1]. Nói như vậy để thấy mọi quan niệm về cái đẹp hay nhạc tính, vần điệu trong thơ trước đây chỉ là quan niệm của một thời, một trào lưu nhất định, do đó, khi thơ hậu hiện đại đưa ra những chủ trương khác, thì nó cũng hoàn toàn được phép, có cơ sở và không hề phi/phản thơ, thậm chí, trong nhiều trường hợp có có ý nghĩa phục hưng thơ.

Thơ vần điệu của chủ nghĩa lãng mạn với trung tâm thẩm mỹ là cái đẹp, như vậy, trên một phương diện nào đó ngày nay đã bị lỗi/lạc thời, thậm chí đã lỗi/lạc thời đến vài chục thập niên so với những trào lưu thơ hiện đại như thơ Đa đa, thơ Siêu thực, thơ Tượng trưng, thơ Vị lai… Thơ hậu hiện đại với những trào lưu tiêu biểu như thơ Tân hình thức (New Formalism), thơ trình diễn đã loại bỏ triệt để vần điệu, nhạc tính và quan niệm thẩm mỹ về cái đẹp (truyền thống). Mỹ học về cái nghịch dị (gotesque), cái trần trụi đã thay thế cho cái đẹp trong quan niệm thẩm mỹ của nhà thơ, và nhạc tính, vần điệu bị loại bỏ để thay bằng giọng kể, tính tự sự, “thi pháp đời thường” (Khế Iêm). Thơ Trịnh Sơn, về cơ bản vẫn mang hình hài của thơ tự do (free verse) của thế kỷ XX - một thành tựu của thời hiện đại với phát minh của Gustave Kahn (1859 - 1936) và đỉnh cao được tạo nên nhờ các nhà thơ chủ nghĩa Tượng trưng như Baudelaire, Rimbaud, Mallarmé, Verlain… Thơ Trịnh Sơn về cơ bản không theo một niêm luật, thể loại cố định nào, cũng không phải là thơ Tân Hình thức, tuy nhiên nó vẫn là thơ hậu hiện đại bởi mang quan niệm mỹ học nghịch dị, đời thường. Trịnh Sơn không cách tân theo hướng hình thức thơ kể, thơ tự sự vắt dòng như Tân hình thức, nhưng anh tiếp thu một nền tảng mỹ học mới của hậu hiện đại. Sự giải thẩm mỹ, phản cái đẹp là thông điệp nghệ thuật chúng ta có thể thấy rõ trong thơ Trịnh Sơn. Cho dù, cần phải thẳng thắn với nhau rằng, ở Trịnh Sơn vẫn còn một sự băn khoăn mỹ học giữa hậu hiện đại với tiền hiện đại, nhiều bài vẫn được viết theo quan niệm mỹ học hay thể loại cũ, tiền hiện đại (lục bát). Sự thiếu dứt khoát này ở thơ Trịnh Sơn là một hạn chế về tư duy thơ, nhưng cũng là tất yếu bởi đặc trưng văn học hậu hiện đại Việt Nam là sinh thể lai ghép, hỗn dung giữa những yếu tố tiền hiện đại với yếu tố hậu hiện đại, tôi sẽ còn quay lại vấn đề này ở phần sau.

Thách thức trong tiếp nhận ở thơ Trịnh Sơn theo tôi, không nằm trong thi pháp của nó, bởi thơ không vần ngày nay cũng đã quá phổ biến, mà nằm trong đặc tính mỹ học nghịch dị, đời thường của nó. Bạn đọc thơ truyền thống (thuộc hệ hình tiền hiện đại) luôn mang sẵn định kiến kiếm tìm cái đẹp trong một thể loại “thiêng liêng”, có chính chất “chính thống”, trữ tình, lãng mạn. Chính vì vậy, một khi bị va chạm với những vầng thơ đời thường, tự sự, mang mỹ học nghịch dị thì sẽ thường xảy ra những cú shock về mặt mỹ học. Ta có thể tìm thấy trong thơ Trịnh Sơn hàng loạt những hình tượng mang thứ mỹ học mới này: “nhà vệ sinh tập thể” [tr.32], “những con chó vểnh tai nghe Trịnh” [tr.48], “thay tã lót” [tr.48], “Nàng rơi giọt máu đổ trên khăn trải giường và chỉ vào đó gọi bằng chứng sự đồng trinh” [tr.62], “Một con chuột nát bét dưới bánh xe tốc hành” [tr.65], “Mấy anh công an đang cố giữ một cô gái trần truồng” (gái điếm – YT) [tr.70]… Tất cả những hình tượng dạng này không phải là một sự hủy hoại thơ, hoặc biểu hiện cho nhận thức văn hóa thấp kém, mà kì thực, nó xuất phát từ quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của văn học hậu hiện đại, đó chính là cái nghịch dị (gotesque). Nếu văn chương tiền hiện đại lấy cái đẹp làm trung tâm thẩm mỹ, thì văn chương hậu hiện đại chọn cái nghịch dị. Nghịch dị là phát hiện quan trọng trong triết học, nghiên cứu văn học của Mikhail Bakhtin[2]. Xuất phát từ việc nghiên cứu nền tảng văn hóa trào tiếu dân gian Trung cổ và Phục hưng của phương Tây nhằm khảo cứu F.Rabelais, M.Bakhtin thực chất đã muốn xây dựng một lịch sử văn học mới, một nền tảng mỹ học mới cho Cựu lục địa. Nghịch dị là quan điểm mỹ học đề cao sự suồng sã, ngôn ngữ toàn dân có tính chất hội hè, trào lộng, ngợi ca hạ tầng thân xác với những từ ngữ tục, chửi thề, nguyền rủa nhị chức năng như một khát vọng dân chủ, lộn trái xã hội. Mỹ học nghịch dị chối từ sự nghiêm túc giả tạo, sự quan liêu, phân biệt giữa người và người. Thông qua tiếng cười dân gian, mỹ học nghịch dị đã bình đẳng hóa mọi cá nhân, giai cấp, chủng tộc bằng những từ miêu tả sinh thực khí, hành vi làm tình hay hành vi bài tiết.

Trong thơ Trịnh Sơn, quy đồng lại hai nhóm hình tượng nghịch dị, ta có thể thấy nhóm gắn liền với hành vi, bộ phận tính dục và nhóm gắn liền với hạ tầng thân xác, các hành vi bài tiết. Tôi có thể chỉ ra một số hình tượng thuộc nhóm 1: “Bé tẻo tèo teo viên thuốc ngừa thai khẩn cấp” [tr.73], “Nhiều bao cao su nhơn nhớt” [tr.77]. Những hình tượng thuộc nhóm 2 còn xuất hiện nhiều hơn: “Và, nước đái thay nước ngọt – Rồi, máu thay nước ngọt” [tr.110], “Đứa bé đái dầm của cuộc đời” [tr.112], “Toilet trên không có bao giờ rơi xuống biển – Những phân những nước đái những vụn thừa của chúng ta” [tr.75]… Cả hai nhóm hình tượng/ngôn ngữ này rõ ràng được viết dưới một quan niểm thẩm mỹ mới mẻ của cái nghịch dị hậu hiện đại. Quan điểm thẩm mỹ ấy đưa văn chương về lại gần với cuộc đời hơn, giải điển phạm và quan tâm đến con người từ góc độ nhân văn đời thường nhất, từ những nhu cầu thầm kín và tự nhiên nhất của họ. Tôi nghĩ, nghịch dị và văn học hậu hiện đại luôn có tính khiêu khích, chống/giải trung tâm về mặt mỹ học, nhưng sự chống/giải đó không nhằm để hủy diệt con người, mà là nhằm xây dựng lại nhân vị cho con người trong thời đại mất Chúa như cách nói nổi tiếng của Nietzsche. Cái đẹp lúc này bị chối từ không phải vì văn học hậu hiện đại là hiện thân của cái xấu, cái ác, cái dơ, cái bẩn thỉu, mà chỉ vì cái đẹp ấy đã trở nên cũ kĩ, xa cách với con người, trở nên quan liêu giáo điều hoặc lạc lõng với đời sống thực tại. Do đó, những câu thơ hay nhất của Trịnh Sơn, và cũng là những câu thơ nhân văn nhất, luôn được viết dưới cảm quan nghịch dị. Bạn đọc nếu như có thể bước qua cảnh giới mỹ học nghịch dị, sẽ cảm nhận được một quan niệm thẩm mỹ mới mẻ như trong đoạn thơ sau:

- Ở miền tây chơi gái miền tây
về miền đông chơi gái miền tây 
ra miền trung chơi gái miền tây
tận miền bắc chơi gái miền tây
qua Thái Lan Hồng Kông chơi gái miền tây
[Cho những cô gái trên đường khuya, tr.45].

Đoạn thơ khá đơn giản lặp đi lặp lại trùng điệp cụm từ “chơi gái miền tây”, tạo tiếng cười trong tiếp nhận. Cười bởi “chơi gái” là hành vi tính giao, suồng sã, phi chính thống, ngoài vòng pháp luật. Cười cũng bởi nó quá đúng trong thực tại, không hề phân biệt vùng miền gì thì chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng gái miền Tây đúng là đẹp nhưng thường có mật độ đi làm “buôn phấn bán hương” khắp nơi trên cả nước và nước ngoài, phổ biến hơn con gái những nơi khác. Nhưng nhà thơ không viết để cười cợt, nhạo báo, mà tiếng cười đó là tiếng cười cảm thông, chia sẻ trong chua xót: “Miền tây ơi miền tây – vựa lúa không nuôi nổi chiếc áo bà ba em mặc” [tr.45]. Tiếng cười và hình tượng nghịch dị như vậy luôn mang tính nhị chức năng, vừa phê phán lại vừa thông cảm, vừa hài hước lại vừa bi đát.

Bạn đọc nếu như vượt qua được chướng ngại vật mỹ học nghịch dị, thông thường vẫn chưa đến được đích ngay mà gần như ngay lập tức phải đối mặt với chướng ngại tiếp nhận khác, liên quan đến những vết tích liên văn bản (intertext). Đọc thơ của những cây viết trẻ hậu hiện đại, sống trong môi trường toàn cầu hóa, được giáo dục đầy đủ và có cơ hội tiếp cận không giới hạn nguồn tri thức nhân loại và dân tộc mọi thời đại qua nền tảng internet, ta có thể thấy thơ của họ là một mạng lưới liên văn bản khổng lồ dẫn dắt người đọc phiêu lưu từ văn bản thơ sang các hình thức văn bản khác. Do đó, trong thơ Trịnh Sơn chúng ta có thể thấy sự đan khảm dày đặc những “điển cố”, “điển tích”, những nhân vật lịch sử, những sự kiện thời sự, những con người nổi tiếng đương thời được liên tục lặp đi lặp lại như là “một thủ pháp” liên văn bản. Ta có thể chia thành một số nhóm cơ bản như sau. 

Thứ nhất là nhóm “điển cố, điển tích” (nhân vật và sự kiện) được lấy từ tôn giáo, văn học dân gian, huyền sử, dã sử như Phù Đổng, Tô Thị, Lạc Long Quân và Âu Cơ, An Dương Vương, Tấm Cám, Trương Chi và Mỵ Nương, Thủy Tinh¸ Đức Mẹ Maria, Satan, Adam, Ngưu Lang và Chức Nữ, Thạch Sanh… Nhóm này có ý nghĩa trầm tích thêm những vỉa tầng văn hóa cho mỗi bài thơ. Dẫn dắt sáng tạo cá nhân xích gần lại với sáng tạo dân gian và những cội nguồn văn hóa của nó.

Nhóm thứ hai là những tác phẩm văn học khác được lựa chọn tên một nhân vật hoặc một chi tiết, hình tượng cụ thể để đưa vào thơ. Ví dụ chi tiết tô cháo hành, lò gạch cũ [tr.71] là lấy từ truyện Chí Phèo (Nam Cao), Hoàng tử bé (Antoine de Saint-Exupéry) [tr.59], Nhật ký Đặng Thùy Trâm [tr.103], nhân vật Lý Mặc Sầu [tr.61] trong Thần điêu đại hiệp (Kim Dung), Thúy Vân [tr.41] trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), Dế mèn [tr.38] trong Dế mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài), chiếc lá cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của O.Henry [tr.54], con cá kiếm [tr.25] trong Ông già và biển cả (E.Hemingway). Nhóm thứ hai này là những vết tích liên văn bản dẫn dắt sự phiêu lưu của người đọc từ thơ Trịnh Sơn đến những tác phẩm khác. Hoạt động thực hành đọc này bổ nghĩa cho nhau, cũng như cho thấy thơ ca cũng có thể là khán đài đa thanh, một dạng lễ hội carnaval giễu hành của nhiều loại văn bản.

Nhóm thứ ba là những nhân vật lịch sử, những con người đương đại nổi tiếng có ảnh hưởng xã hội. Nhóm này bao gồm Ngọc Hân công chúa, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Du, Nguyễn Ngọc Tư, Hàn Mặc Tử, Mộng Cầm, Xuân Quỳnh, Einstein, S.Freud, Archiméde, Andersen, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Huệ, Bùi Xuân Phái, Tây Thi, Điêu Thuyền… Trong đó, tôi đặc biệt chú ý đến Trịnh Công Sơn là nhân vật được thường xuyên xuất hiện trong thơ Trịnh Sơn. Có thể những bài hát của nhạc sĩ tài danh này đã trở thành cảm hứng sáng tạo thơ ca cho Trịnh Sơn, hoặc nội dung tư tưởng những ca khúc bất hủ ấy nhận được sự đồng cảm của thi nhân. Tuy vậy, tôi vẫn nghiêng về giả thuyết Trịnh Sơn đã sử dụng Trịnh Công Sơn như một phép chơi chữ. Bởi Trịnh Công Sơn và Trịnh Sơn có tên gần như y hệt nhau, và trong thơ, Trịnh Sơn cũng chỉ định danh chung chung, tóm lược là “Trịnh” chứ không nói rõ Trịnh Công Sơn. Sự nhập nhằng ấy, dĩ nhiên là một dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp khi đưa những nhân vật này vào thơ đó là Trịnh Sơn muốn thông qua cuộc đời, tư tưởng, thân phận của họ nhằm trình bày quan điểm sống và quan niệm nghệ thuật của mình.

Nhóm thứ tư là những sự kiện lịch sử và đương đại quan trọng như vụ xung đột căng thẳng ở biển Đông, vấn đề Bô xít Tây Nguyên, vụ mua dâm trẻ em vị thành niên ở Hà Giang, ngã ba Đồng Lộc, giá cả đắt đỏ ở sân bay... Dụng ý liên văn bản của tác giả trong trường hợp này đó là gắn văn bản thơ ca với văn bản xã hội, chính trị, văn hóa chung của thời đại. Thủ pháp ấy giúp thơ Trịnh Sơn luôn mang tính thời sự lẫn bày tỏ được thái độ công dân. Hình tượng “ngã ba Đồng Lộc” xuất hiện nhiều lần như một sự biết ơn của thế hệ trẻ đối với các thế hệ cha anh cách mạng đi trước, cũng như gợi nhắc thái độ yêu nước ở thì hiện đại đã là những vết tích liên văn bản vượt ra ngoài phạm vi hạn hẹp của văn chương. “Có rất nhiều hố bom trên cung đường Trường Sơn gió mát – Hố bom nào xanh hơn nơi ngã ba Đồng Lộc” [Scarlet áo xanh, tr.106]. 

Nhóm thứ năm là những hệ thống triết học, định lý/luật, những phát kiến khoa học quan trọng của loài người, được nhà thơ ẩn chìm vào trong văn bản. Người đọc chuyên nghiệp có phông văn hóa, tri thức rộng khi đọc thơ Trịnh Sơn cảm thấy rất ấn tượng về độ hiểu biết và trình độ tri thức liên ngành của tác giả. Ví dụ, trong câu thơ “một cánh bướm vỗ ở Brasil cho Paris mưa” thì sẽ hiểu tác giả muốn nói đến hiệu ứng cánh bướm do Edward Norton Lorenz phát minh năm 1972 trong bài nói chuyện Predictability: Does the Flap of a Butterfly's Wings in Brazil Set off a Tornado in Texas? (Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?), nhằm nghiên cứu về đặc tính hỗn độn, ngẫu nhiên nhưng có sự tương tác mạnh mẽ của khí tượng học nói riêng và mọi sự kiện trong thực tại nói chung[3]. Ngoài ra, người đọc còn có thể tìm thấy vô số những hệ triết/khoa học khác như thuyết tương đối của Einstein, thuyết đòn bẩy của Archiméde, phân tâm học của S.Freud… Chính những vết tích liên văn bản này đã làm nên chiều sâu triết/mỹ học cho tập thơ, đồng thời người đọc lúc này, muốn thông hiểu văn bản trọn vẹn không thể là người đọc ngây thơ được nữa, vì thơ ca không chỉ làm nên để thỏa mãn cảm xúc, trạng thái tinh thần của riêng nhà thơ, mà là sự dẫn truyền đến những nền tảng triết mỹ thâm sâu khác.


3. Nỗi đau hôn nhân như là cội nguồn thi hứng - thử phân tích tâm lý bề sâu cái tôi trữ tình của tác giả

Ảnh sưu tầm
Tôi sẽ thử áp dụng phân tâm học nhằm phân tích tâm lý bề sâu hình tượng tác giả, được biểu hiện thông qua cái tôi trữ tình trong thơ, từ đó nhằm truy nguyên cội nguồn thi hứng của Trịnh Sơn. Thơ ca dẫu thể loại nào, thời đại nào luôn xuất phát từ một nỗi đau sâu xa, một vết thương, mất mát thầm kín nào đó. Nhà thơ một khi không thể giải quyết, chữa lành nỗi đau trong thực tại, sẽ trốn chạy, quay về trong thơ. Do đó, thơ hay thường buồn và đau khổ, tính thơ của nó được thể hiện trong đặc tính thẩm mỹ đó. Ấy vậy nên áng thơ hay nhất lịch sử văn học Việt Nam là Đoạn trường tân thanh (Nguyễn Du), và thơ ca cách mạng dẫu sử thi, hùng tráng, lạc quan thì vẫn xuất phát từ nỗi đau mất nước, đất nước chia cắt. Thơ Trịnh Sơn bề bộn nỗi đau đời tư thế sự, trong thơ anh, chúng ta thấy rất nhiều trăn trở của thời cuộc. Đó có thể là nỗi buồn thế sự vì môi trường bị hủy hoại như việc bức tử sông Thị Vải [tr.164], về vấn đề trăn trở Bô xít ở Tây Nguyên, vấn đề hội nhập kinh tế WTO hay những cuộc chiến tranh liên miên, thân phận người vượt biên… 

Thơ Trịnh Sơn cũng trăn trở khổ đau về sự đổ vỡ quan hệ xã hội, sự đánh mất nhân tính và tình thương giữa con người với con người. Đó là một hiện trạng đồng tiền lên ngôi, có tiền mua dâm cũng được: “Lá xanh đem đổi thành tiền – Bán không ngã giá những phiền muộn qua” [Vô cảm, tr.16], hoặc tình yêu thiêng liêng bị mất hết ý nghĩa ban nguyên: “Trái thị vàng tình yêu lũ sâu ngày càng nhiều – Đổ lỗi cho dục vọng?” [Nhà mình không có vườn, tr.17]. Sự đổ vỡ trong quan hệ xã hội “Bầu không thương bí, cũng đành – Còn đem oan trái mà tành tan nhau” [Rủ nhau ra biển, tr.27], hoặc sự giải thiêng các điển phạm cũ có tính đại tự sự “Vẩy rồng anh dán lên vai – ảo tưởng trong mây có mặt trời” [Mồ côi, tr.73] đã khiến con người hậu hiện đại cô đơn hơn bao giờ hết. Họ cô đến đến mức tự chửi mình như một sự phản tư: “Góc Văn miếu có một người té xe – Không biết chửi ai – Không nỡ chửi mình – Ngửa mặt – Chửi trời” [Thủ đô, tr.78], và luôn tự nhận thức rằng chính mình là kẻ có tội: “Có thể ngày mai con chiên lên giàn thiêu – Có thể ngày mai tên châm lửa lên giàn thiêu – Có thể ngày mai giàn thiêu tự thiêu” [Ân huệ, tr.94]. Tuy nhiên, tất cả những suy tư và nỗi cô đơn thời cuộc này vẫn không phải là động lực thơ sâu xa của Trịnh Sơn.

Cũng giống như trường hợp Đàm Huy Đông trong tập thơ Miền không có gió mà tôi đã phân tích trong một tiểu luận khác, Trịnh Sơn ở một mức độ nhẹ hơn, nhưng cũng có cùng chung gốc sáng tạo, đó là cảm thức nỗi đau do em đi lấy chồng gây nên. Thực ra, trạng huống tinh thần sáng tạo khởi phát do nỗi đau “người yêu đi lấy chồng” rất phổ biến trong thi ca, nhạc họa. Bản thân Hoàng Cầm trong Lá diêu bông cũng từ cảm thức chị/người yêu đơn phương đi lấy chồng mà sáng tạo[4]. Đọc kĩ lại thơ Trịnh Sơn, nỗi đau có thể xuất phát từ nhiều hướng, nhưng đều khởi đi từ chuyện “em lấy chồng”. Những câu thơ đậm tính tự sự và chân thật nhất của nhà thơ chính là viết về cảm thức này.

- Em thôi ngu ngơ
Nép gió ngó mùa
tay vàng năm ngón giỡn đùa với con
Ừ
cũng lỡ diêu bông
Ru con, đừng hát ru buồn mà nhớ [Không trở về, tr.51].

Chính vì sự đổ vỡ của tình yêu gây nên, mà thế giới với thi nhân mới trở nên đổ vỡ. Em lấy chồng là một thất bại tính dục, một thất bại mà người đàn ông trong cái tôi trữ tình không bao giờ có thể chấp nhận được, hoặc không có cách gì có thể cứu vãn, sửa chữa. Chia tay hay người yêu (cũ) đã có người yêu mới thì vẫn còn hi vọng, còn có cơ may làm lại, nhưng một khi em đã lấy chồng thì mọi cánh cửa dẫn về nẻo yêu gần như bị san lấp lại, bịt kín mịt mùng. “Thôi, - Em đóng cửa – Kìa, - Con khóc – Chồng ghen – Coi như – Chưa bao giờ – Anh – Chưa bao bao giờ – Về” [tr.52]. Đoạn cuối cùng này của bài thơ gần như tắc nghẹn, lời thơ bị chia nhỏ, lắp bắp như nức nở làm chúng ta hiểu rõ tâm trạng của thi nhân. 

Trong nhiều bài thơ khác, ta vẫn thấy có cùng chung một cội nguồn cảm xúc, xuất phát từ việc em đi lấy chồng bỏ rơi tôi. “Vu quy em thiếu gió mùa đông bắc – Rượu tây đổ tràn tháp cốc -… Vui cũng tỉnh – Buồn cũng tỉnh” [Cưới, tr.89]. Giọng điệu lúc này của cái tôi trữ tình gần như hằn học hẳn, không còn rào trước đón sau hay dụng công nghệ thuật làm gì. Bởi lúc này, sự ghen tuông, nỗi đau khổ không cách gì cứu vãn, nó dường như đã chiếm lấy toàn bộ tâm trí của người thơ. Dĩ nhiên, đôi khi nỗi đau có tính chất cội nguồn này cũng được Trịnh Sơn ngụy trang dưới những hình thức khác nhau, như thân phận của cô gái quê đi lấy chồng xa (có lẽ là lấy chồng ngoại quốc), sẽ không quay trở về thăm cha mẹ được:

- Con lấy chồng đưa dâu ở sân ga
không áo hoa
không sinh lễ
Chồng con thập thò trước cửa phòng vé
Dốc cô đơn đặt hai chiếc ghế không khứ hồi
(không phải chiếc ghế nào cũng có thể ngồi và nhìn thấy bầu trời)
[Di chứng, tr.15]

Nhưng kể cả dẫu đã được ngụy trang tinh vi dưới dạng một cái tôi trữ tình khác (người con gái đi lấy chồng xa), thì nó vẫn chỉ cho chúng ta nhận ra sự quy đồng rõ hơn cội nguồn nỗi đau trong thơ Trịnh Sơn. Có lẽ, cảm thức nỗi buồn của người con gái chia tay xa rời cha mẹ, chính là sự phóng chiếu nỗi đau của chàng trai có người yêu (cũ) ra đi lập hôn nhân ở nước ngoài. Ta chú ý kĩ cái nhìn của cái tôi trữ tình về người chồng, đó không phải là cái nhìn của người vợ trẻ nhìn về tân lang, mà chỉ có thể là cái nhìn của những tình địch khinh miệt nhau, coi thường đối phương. Từ “thập thò” dùng để miêu tả người chồng thể hiện chú rể là kẻ không đường hoàng, không tự tin, không chính danh và có gì đó tiểu nhận, bé mọn. Thế nên cuối bài, sự nấc nghẹn như khóc nức nở đã xảy ra khi người thơ hiểu rằng em đã ra đi với chồng thực sự: “Con lấy chồng, Mẹ ạ – Con lấy chồng, Mẹ ạ – Vú con gái cứa vào thời gian – không đứt” [Di chứng, tr.15]. Cái nhìn “vú con gái” rõ ràng là cái nhìn từ phía nam tính, chứ không phải nữ tính, do đó, dù đã hóa thân một cách thần thông quảng đại, nhưng con yêu quái nỗi đau tình yêu ghen tuông liên quan đến cuộc hôn nhân của em vẫn bị lộ ra, khắc khoải.

Trong bài thơ Đứa bé, cái tôi trữ tình của tác giả cũng thổ lộ rõ nỗi đau mối tình đầu bởi nàng đã đi lấy chồng xa xứ tại Đài Loan. Điều này cho chúng xa cơ sở để xâu chuỗi và liên hệ với bài thơ Di chứng nói trên.

- Hai mươi tuổi tôi lại bật khóc trước giấc mơ mang tên ngoại quốc
Mối tình đầu vượt biển Đài Loan
Chóng vánh giấc mơ kiếp người [Đứa bé, tr.115]

Trong bài Quà, nỗi đau “em lấy chồng” diễn ra hiển ngôn hơn, không cần ngụy trang như trên. “Gói thiên thu vào một cái hộp đẹp – Tôi mừng em – Ngày mai – Chồng lấy” [tr.23]. Chàng trai đã luôn cố gắng cao thượng trước ngày vui lớn của em. Tuy vậy, những kỉ niệm yêu nhau thời tuổi xanh cứ ùa về, tràn ngập trong kí ức, nào là những con đường hò hẹn mọc rễ, những đêm giỡn đùa bôi màu lên nhau… nên cũng cùng, cái tôi trữ tình vẫn phải ghen tuông phát ngôn thông qua người mẹ: “Mẹ tôi nói: - lấy chồng, nghĩa là, vào thòng lọng” [tr.24]. Nhưng đồng thời khi nói lên câu gần như trách móc, oán trách, nguyền rủa ấy, thì cái tôi trữ tình càng ý thức về sự cay đắng thân phận của mình thông qua lời của người cha: “Ba tôi cười giở sách cũ đọc nửa câu danh ngôn – “độc thân là cái máng đầy bùn” [tr.24]. 

Tóm lại, “em lấy chồng” và cuộc hôn nhân của em chính là cội nguồn sâu xa của mọi sáng tạo thi ca Trịnh Sơn. Từ lúc em ra đi, và không bao giờ quay về được nữa, thế giới đã trở thành một thế giới khác, anh trở thành người đàn ông khác, và tình yêu cũng không còn là tình yêu hạnh phúc, ban nguyên. Nhà thơ mặc dù là kẻ “gấu ó” trong các địa hạt khác nhau của đời sống, nhưng suy cho đến tận căn cốt vẫn là kẻ khiếm khuyết thất bại trong tình yêu. Thất bại và khiếm khuyết ấy tạo nên sức mạnh cho nhà thơ, khiến hắn nỗ lực sống kiệt cùng trong giấy bút. Chẳng phải sứ mệnh sống của nhà thơ là sứ mệnh khổ đau? Đúng như những câu thơ của Trịnh Sơn: “Nếu muốn cuộc đời mình dài hơn – Cứ làm cho nó u buồn” [Đứa bé, tr.123].

Ảnh sưu tầm
Trường An, 23h15, 25/8/2015

[1] Xin xem thêm các công trình của Khế Iêm về thơ và thơ Tân hình thức như Thơ khác (orther poetry) (2013), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội và Vũ điệu không vần - tứ khúc và những tiểu luận khác (2011), Nxb Văn học, Hà Nội. 
[2] Xin xem thêm M.M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[3] Xin xem thêm James Gleick (2011), Từ hiệu ứng con bướm đến lý thuyết hỗn độn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 
[4] Xin xem thêm Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn, Nxb Tri thức, Hà Nội

Nguồn:  - Nhà phê bình văn học - Nhà thơ - Tiến sĩ ngữ văn Phan Tuấn Anh.
           - Về tư liệu cá nhân (tóm tắt) từ nguồn Tạp chí Văn nghệ quân đội.

Không có nhận xét nào :