![]() |
Thi sỹ A Khuê qua nét vẽ của họa sỹ Đỗ Duy Ngọc |
Hoàng Quý
Mình được đọc ít quá. Sách rất thiếu. Sách của những nhà thơ miền Nam trước 1975 rất khó kiếm. Tôi nói với anh rằng cũng đọc nhưng không nhiều lắm. Anh thở dài: Phải cố tìm mà đọc. Nhiều bài thơ, nhiều tác phẩm cả văn xuôi và thơ rất có giá trị. Mình làm biên tập ở báo Văn nghệ, công việc tuy không quá bận nhưng sức khoẻ kém lắm rồi, dạo này phổi rất tệ, đọc ít dần, như thế thực không hay lắm đâu…
Anh
nhìn đăm đắm bầu trời nhớp nhoá mưa bấc phía ngoài cửa hẹp, bỗng thở dài, bỗng
đọc:
“Đồi
trăng một cụm tóc phơi
Thưa
em uống rượu tả tơi một mình
Đồi
trăng một cụm phơi mình
Thưa
anh tầm thể đã nghìn xuân qua
Đồi
trăng u uất chưa bưa
Bữa
qua tôi uống thêm mùa uất u
Đồi
trăng không ngớt vi vu
Bữa
nay tôi ngậm sương mù thở than
Đồi
trăng mỏng diệu diệu vàng
Hồn
bay, bay giữa hai hàng hoa lê
Lên
đồi khăn áo lê thê
Áo
trăng quá lạnh tôi về giết trăng”
Nguyễn
Trần Thái tung chăn choàng tỉnh, bật dậy, la: Thơ ai hay quá vậy? Lên đồi
khăn áo lê thê / Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng là hai câu thơ hay dựng tóc;
còn hai câu kế trên đẹp như một tác phẩm hội hoạ của một danh hoạ tài ba! Anh
Thực ho húng hắng, rồi cười buồn: Hay quá phải không? Mình nghe người ta đọc một
lần, người đọc cũng không biết thơ của ai. Mình dò hỏi nhiều nguồn vẫn chưa biết
ai là tác giả.
Lúc đầu, mình đã nghĩ thơ của người này có cái gì đó giống thơ Hàn Mặc Tử, lại có cái gì đó váng vất Bùi Giáng. Nhưng, đọc kỹ nhiều lần thì càng thấy rằng không phải vậy. Tất nhiên là chỉ bài này, hoặc là 12 câu mà mình biết chứ những bài khác thì đâu đã biết. Người thơ này phải là một nhà thơ có tài. Mà cũng không rõ bài thơ chỉ bấy nhiêu thôi, hay còn nữa mà người đọc cho mình nghe cũng không nhớ. Nếu bài thơ kết ở đó thì đã rất hay rồi…Khí thơ nghe lạnh mà vẫn trong, các ông ạ!
Lúc đầu, mình đã nghĩ thơ của người này có cái gì đó giống thơ Hàn Mặc Tử, lại có cái gì đó váng vất Bùi Giáng. Nhưng, đọc kỹ nhiều lần thì càng thấy rằng không phải vậy. Tất nhiên là chỉ bài này, hoặc là 12 câu mà mình biết chứ những bài khác thì đâu đã biết. Người thơ này phải là một nhà thơ có tài. Mà cũng không rõ bài thơ chỉ bấy nhiêu thôi, hay còn nữa mà người đọc cho mình nghe cũng không nhớ. Nếu bài thơ kết ở đó thì đã rất hay rồi…Khí thơ nghe lạnh mà vẫn trong, các ông ạ!
Đêm
đó, chúng tôi thức trắng. Trần Quốc Thực còn đọc khá nhiều thơ của Bùi Giáng,
Thanh Tâm Tuyền và vài nhà thơ miền Nam khác mà anh yêu thích. Riêng tôi, 12
câu thơ của tác giả “bí mật” nọ cứ ám ảnh, và ám ảnh rất thường khi sau này.
Khi thi sĩ Trần Quốc Thực đã bỏ bạn bè về một trời khác, thì ngoài thơ của anh
mỗi lần tôi đọc lại, tôi lại nhớ tới 12 câu thơ anh đã đọc cho tôi và Nguyễn Trần
Thái nghe đêm nào. Cũng như anh, tôi đã cố công dò tìm cho ra ngọn nguồn mà
đành chịu.
2.
Đầu tháng bảy năm nay, nhà nghiên cứu lịch sử kiêm phó Chủ tịch Hội Văn nghệ
Bình Phước Phan Văn Dõng điện thoại xuống Vũng Tàu, hỏi tôi:
-
Anh có thu xếp đi một chuyến Bình Phước được không? Giữa tháng này chúng tôi mở
Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật lần thứ II. Cố mà gác mọi việc lên với tụi
mình. Ở trên này có A Khuê và Trung Đức biết anh đấy!
Và
thế là tôi có điều kiện cho một chuyến đi mới, bổ ích và rất đặc biệt.
Anh
Dõng bố trí cho tôi và nhạc sỹ A Khuê ở chung một phòng, phòng 406 của khách sạn
Mỹ Lệ, một khách sạn đẹp nhất của thị xã Phước Long - mà cũng có lẽ là đẹp nhất
của Bình Phước. Tôi và nhạc sỹ A Khuê luôn luôn ngồi kề cận nhau dù trên xe,
hay trong các bữa ăn của đoàn. Hằng đêm, khi về đến khách sạn thì thôi rồi, thức,
đọc thơ, hát, chụm đầu không ít lần xuống những khuông nhạc. Chúng tôi thường
nói tếu: Rồi sẽ đến lúc được ngủ mãi. Vì thế có dịp ở với nhau sướng thế này cứ
phải thức cái đã! Đến Điểu Đức - anh bạn nhạc sỹ rất trẻ người S’tiêng nhập
đoàn sau, ở cùng phòng 406 theo đề nghị của tôi cũng được một phen bội thực
thơ, bội thực thức và bội thực chuyện...tào lao.
Đêm
cuối của chuyến đi, nhạc sỹ A Khuê bỗng hỏi: - Em đã đọc thơ thằng này chưa…Rồi
anh đọc Em Pleiku má đỏ môi hồng/ Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Tôi
reo lên: Thơ Vũ Hữu Định! Rồi đọc nối luôn Nên mắt em ướt và tóc em ướt/
Da em mềm như mây chiều trong.
Như
chạm mạch, tôi say xưa đọc thêm mấy câu khác:
“Chiều
khó thở ngồi bên quán xép
Một
miếng khô, một xị rượu nồng
Nhai
là nói với đời lận đận
Uống
là nghe sầu chảy long đong”
(Thơ
Vũ Hữu Định)
A
Khuê khoái quá, cười sang sảng, rồi bảo: Em thuộc cả thơ thằng Định, thằng bạn
tri kỷ của anh là anh sướng quá. Vũ Hữu Định lận đận lắm. Nó chết buồn quá, khi
tuổi mới vừa 40, chết vào tháng Giêng, tháng vừa xuân năm Tân Dậu (1981) ngay
bên bờ sông Hàn của thành phố Đà Nẵng, cái thành phố mà thuở bé nó và anh đi
đâu cũng có nhau. Anh kể cho tôi nghe rất nhiều những năm tháng trôi vô định
cùng Vũ Hữu Định. Anh còn kể và đọc thơ của một người bạn rất thân nữa là Phạm
Phú Hải (tác giả tập thơ Gánh Nước Tưới Sông). Anh khen Trần Quang Lộc - bạn đồng
ấu với các anh ngày nào, rằng Trần Quang Lộc là một nhạc sỹ tài hoa. Nhưng tôi
không thấy anh nhắc lời về cái hành vi “lờ ca từ” từ thơ của anh mà dư luận đã
một dạo rất phản ứng. Khi tôi cố tình động chút ít vào sự kiện ấy, anh chỉ buồn
buồn, rồi bảo: Cả thơ mình, ca từ mình viết cũng có ít nhất không dưới 13 lần
trong nhạc Trần Quang Lộc chứ có riêng gì “Về đây nghe em” đâu. Nhưng thôi,
chuyện đã qua rồi, mình cũng muốn gặp lại nó, vì gì thì gì nó cũng đã từng là bạn
của tụi mình…
Sang
đầu tháng 8, tôi trở lại Bình Phước một lần nữa. Sáng hôm tiễn tôi ở bến xe
khách thị xã Đồng Xoài, nhạc sỹ A Khuê đưa cho tôi một tập thơ mà anh photo từ
những tờ bản thảo anh còn giữ được. Anh bảo:
-
Hồi trẻ, anh làm nhiều thơ lắm. Chả biết hồi ấy chữ ở đâu mà lắm thế. Viết cứ
như một thằng mộng mị…Em mang những bài thơ cũ này của anh về và đọc xem thế
nào! Năm 1999, cũng nhờ bạn hữu, Nhà Xuất bản Trẻ in cho anh tập thơ “Lùa bò
trong sương”, còn tập “Vàng bay” do Nhà Xuất bản Da Vàng ở Đà Nẵng in năm 1970
thì anh chả còn tập nào trong tay nữa.
Tôi
cảm động cất những bản photo anh đưa vào đáy chiếc ba lô và hứa sẽ đọc.
Và,
tôi đã đọc đi đọc lại như bị ma ám suốt mấy đêm liên tiếp. A Khuê không chỉ là
một nhạc sĩ có tài mà tôi đã biết. A Khuê còn là một nhà thơ, đúng hơn, là một
thi sĩ - nhạc sĩ tài hoa dấn thân cho cả nhạc lẫn thơ với ý nghĩa đúng đắn nhất
của những từ này!
3.
Thơ A Khuê là một thứ thơ được sinh ra trong lòng của người thi sĩ luôn luôn biết
cách “uống chữ, uống đời rồi nhả tơ vàng” để rồi tự chuốc ngất say ngư hơn cả uống
rượu. Và, cũng chỉ sinh ra ở “loài thi sĩ” bị mắc một căn bệnh trầm kha rất đỗi
đáng yêu là bệnh “viêm xê dịch mãn tính”. Bởi thế, họ không ở đâu cho yên. Bởi
thế, họ rất biết cách tự vui và biết cách tự trào; rất biết gửi hồn mình, ẩn hồn
mình trong mê trận chữ, biết “điều” chữ “đi” uyên náo cả lòng người.
Đây
nhé:
Ra
đi hồn không áo
Ngỡ
dòng sống là đây
Con
ngươi tôi trâng tráo
Chẳng
có một bóng mây
(Sầu
riêng - Trong: Bụi cát ra hương)
Đây
nữa:
Rồi
khi không ta dẫn hồn đi trốn
Chân
trên cỏ chân lẫn cỏ sương bay
(Long
lanh hương - Trong: Bụi cát ra hương)
Và,
đi đến độ:
Bỏ
xứ con đi
Đường
trời xa lạ
Con
ngươi của mẹ
Nhấp
nháy mặt trời
Con
đi trong nắng
Máu
rờn rợn trôi
(Mẹ
tàn phai - Trong: Bụi cát ra hương)
Thật
là một cuộc đi nhiều kinh hoàng, mang nỗi buồn cuộc đi cũng rờn rợn kinh hoàng! Con
đi trong nắng/ Máu rờn rợn trôi là những câu thơ viết về một sự đi trong cái kiếp
nạn của đời người, của chính anh, rất hay và rất gợi, không bình được. Đọc, và
ngẫm ngợi, có thể thì thấu cảm, và không nên bình. Tôi nghĩ thế!
Nhưng,
liệu có phải người thi sĩ này đi chỉ nhằm cho một cuộc rong chơi bất cần đời?
Không đâu! Ta có thể gặp anh lòng nhiều trĩu nặng khi thác lời những người hành
khất để cất lên một điệu ca buồn, buồn đến nhức nhói, buồn đến tái tê: Tóc
dài phất phới/ Để tang đời ư/…Áo quần bẩn thỉu/ Ta thù đời ư/ Bao lời xua đuổi/
Ta thương người ư/ Ngồi nói một mình/ Ta cao ngạo ư/ Nằm ngủ trần truồng/ Ta
điên khùng ư (Khất hành ca - Trong: Lùa bò trong sương). Ở lời mà anh nói
thác cho những kiếp hành khất là một loạt các câu hỏi gấp gáp mà nào có dễ trả
lời! Thương những kiếp mỏng ở cõi người, nhưng anh cũng biết rằng lòng anh dẫu
có như Hồ nguyệt đọng cũng chỉ có thể Ném hòn sỏi đơn sơ và
bất lực.
Trong
bụi, cát tơi bời của cuộc đi, sự vật lộn, sự dằn vặt trong tâm hồn chính nhà
thơ đã không dưới một lần anh buộc phải kêu to rôi tự thán: Ta là không
bóng không hình nàng ơi/ Sao ta đày ải cuộc đời trăm nơi/ Ta còn đây hay ta mất
hút/ Trong nhà lớn bao la cuộc đời (Thiên thần không bóng không hình
-Trong: Lùa bò trong sương). Phải chăng, mỗi khi như thế, mỗi khi lòng anh cô
quạnh và nhiều bất lực, anh lại tự để cho lệ mình rơi rớt đầm đìa:
Buồn
trên sông khóc trên sông
Cũng
không đủ lệ một dòng cho ai
Nằm
bên cỏ dại thầm thì
Thương
chưa hề yêu chưa hề thương yêu
Sao
đâu sao đâu đìu hiu
Áo
trăng ta lạc giữa chiều rồi chăng
(Lẻ
loi - Trong: Lùa bò trong sương)
Rồi
anh chia sẻ:
Dù
rằng máu vẫn nguôi ngoai
Đêm
đêm tiếng thở lạnh dài hư vô
Tay
cầm nguyệt đã tinh khôi
Vàng
- một - phím - vàng - hai - rơi - ngõ - vàng
(Nỗi
lòng chia sẻ - Trong: Lùa bò trong sương)
Cố
thi sỹ - nhà phê bình văn học Trịnh Thanh Sơn có lần tâm sự với tôi rằng: Thơ
hay hình như phần nhiều bật lên trên miệng vực của những nỗi buồn. Có lẽ đây
cũng không chỉ riêng là nhận định của cố thi sỹ họ Trịnh. Tôi đồng tình rằng,
cái có thể là “quy luật” sinh ra thơ hay mà cố thi sỹ đúc rút tâm sự với tôi, bởi
ông đã trải và nghiệm khi đọc hàng núi sách và trò chuyện, tranh luận với rất
nhiều thi bá, thi hữu ông gặp trong mấy mươi năm sống, đọc và viết. Khi đọc thơ
A Khuê, càng đọc tôi càng sửng sốt thấy các bài thơ hay của thi sĩ luôn luôn đi
ra từ những nỗi buồn. Ví dụ, khi A Khuê tạ ơn ân huệ của tháng ngày mà cuộc sống
ban tặng, anh viết ra một thứ thơ đẹp buồn tráng lệ đến thế này:
Hồn
như vĩ cầm lệ
Kêu
réo qua từng ngày
Từng
ngày bao ân huệ
Như
tháng tháng mây bay
(Không
ngờ - Trong: Bụi cát ra hương)
Hoặc
cả ngay khi A Khuê gửi lời, gửi lòng cho một người con gái dù là gái giang hồ
thì câu chữ tài tình anh viết vẫn luôn bật lên từ thẳm sâu buồn:
Người
em gái tóc giang hồ bạc phếch
Ta
và em đôi mắt thở rất gần
Hồn
xơ xác nằm im trong bụi trúc
Nghe
xa xăm tiếng thở của vô cùng
(Người
con gái giang hồ - Trong: Bụi cát ra hương)
Tôi
đã đọc rất kỹ 80 trang photo mà nhạc sỹ - thi sĩ A Khuê đưa cho, hôm anh tiễn
tôi ở bến xe thị xã Đồng Xoài. Chỉ mới 80 trang anh đưa, với 60 bài thơ (có lẽ
là chưa đầy đủ - thuộc hai tập thơ khác nhau: Tập “Lùa bò trong sương” và tập
“Bụi cát ra hương” anh đang viết dở. rồi có thể mất hứng, có thể vì một lý do
nào đó không muốn viết thêm nữa) trải dài gần 40 năm chuyên chú với thơ trước
khi bị bảy nốt ma mị của âm nhạc lôi kéo. Ở bất cứ bài thơ nào của anh cũng có
thể tìm được những câu thơ bậc thi sĩ. Tuy nhiên, quan trọng hơn là thơ A Khuê
luôn mang một thi tâm rất nhất quán. Thơ anh buồn mà trong, khi vui cũng không
vì thế quá tưng bừng, và khi chất chứa những cay đắng (người mà không có đôi
khi cay đắng thì mới là cái giống lạ!) thơ anh cũng không rơi vào lối nói nhiều
gào thét. Trái lại, bất kể thế nào, bất kể hoàn cảnh nào anh cũng luôn luôn giữ
cho tư thế “đi” trong bụi và cát của đời thơ và có khi là đời anh một tư thế, một
hồn chữ luôn luôn sang trọng, điềm tĩnh. Đó cũng là một phẩm cấp thi sĩ chăng?
Nhà
thơ tình của thế kỷ XX Xuân Diệu đã từng nói đại ý: Anh nói rằng anh bình thơ rất
giỏi ư? Tôi chưa tin! Hãy trích dẫn dẫu chỉ một câu thơ hay tôi sẽ tin và tin
hơn cả những lời bình!
Thơ
A Khuê thật nhiều câu hay. Chữ trong thơ anh nhiều khi chớp sáng và rất lạ, rất
bất ngờ. Anh diễn tả cái sự anh yêu một cô gái đến mức:
Bình
minh đỏ rực lên rồi
Môi
cô hạt máu
Khóc
lời tôi chăng
Thì
xin cô hãy nhớ rằng
Trong
tôi dòng máu vẫn hằng chảy ra
(Nón
cỏ theo người - Trong lùa bò trong sương)
Hoặc
là cái cách anh diễn đạt “cái sự bay” lay thức hồn anh cũng thật khác thường,
cái sự bay không tới cao sang mà lại tới một bày cò con thì càng bất
ngờ làm sao:
Nếu
ta mọc cánh mà bay
Thì
ta bay tới một bày cò con
Bay
tàn phai bay héo hon
Bay
đi tứ xứ tìm hồn duyên xưa
(Nỗi
lòng chia sẻ - Trong: Lùa bò trong sương)
Và,
cũng để chứng minh rằng trong thơ A Khuê lao động chữ luôn cật lực nhằm tìm ra
cách diễn đạt sống động, mới mẻ có thể thấm vào tâm cảm người đọc. Ví dụ, trong
bài “Tỳ bà xanh” anh tả các ngón tay lảy dây bấm phím như dốc tất thảy tim gan
phổi óc ngỡ cháy thành khói thiêng mộng mị, ảo diệu đến thế này:
Má
hồng
Cô
bé tỳ bà câm
Chặt
năm ngón tay
Chặt năm
ngón tay đốt trầm
Đàn
khói lộng
Tan
tành tình trăm năm
Giời
ạ! Đàn đến độ như đã Chặt năm ngón tay đốt trầm, ngón tay người đàn rực
bốc khói trầm, phóng ngôn thế, câu chữ ma diệu thế, thi ảnh ảo dụ thế còn biết
tìm khác thế nào cho hay hơn nữa đây!
Tuy
nhiên, cũng có thể thấy dù đã rất thành công, nhiều ấn tượng từ nhiều câu thơ,
bài thơ độc đáo như một đặc sản A Khuê, cũng không phải không có những bài
(trong số bài anh photo tặng tôi) anh viết quá gần Hàn Mặc Tử ở ảnh hình, quá gần
Bùi Giáng ở cách nói. Cũng tất nhiên như một lẽ thường thôi mà, nhiều thi
sỹ tài hoa vẫn ít nhiều ảnh hưởng những ngọn nguồn, những trào lưu, những giọng
điệu tương hợp với sở ý mình. Ví như: Các em phải hiểu cho nhiều/ Đời ta bụi
gió đã nhiều lất lây/…Dạ thưa trời đất vốn là/ Bụi bay cát chạy vốn là bụi bay cũng
chừng hơi hơi tí ti Bùi Giáng phải không, anh A Khuê?
4.
Đêm nay, tôi ngồi đọc lại 60 bài thơ trong 80 trang photo mà thi sĩ - nhạc sĩ A
Khuê tin cậy trao cho. Tôi mang một cảm giác nhiều tiếc nuối vì người thi sĩ
tài hoa này làm thơ ít quá. Hay anh bỏ thơ mà đi? Hay ngược lại? Như thế liệu
có thiệt cho thơ Việt chúng ta chăng khi mỗi năm có đến hàng ngàn tập thơ in la
liệt. Trong số đó thơ thứ thiệt, thơ đặc sản như cỡ A Khuê và một số thi tài
khác đốt đuốc giữa ban ngày cũng chỉ lác đác. Chao ôi! Cái sự mọi ai đều thích
in thơ chưa hẳn đã là điều dở - tất nhiên! Có chăng, cái thứ phẩm của món “thơ
giả thơ” (chữ của nhà thơ Inrasara) mới làm cho mâm tiệc thanh cao và uyên ảo của
Thơ (viết hoa) là phải chịu “hầm bà làng”. Điều này lại phải cậy nhờ mấy ông xuất
bản và kêu gọi cả sự tỉnh ra của các ông các bà nhiều ngộ tưởng.
Nhưng,
tôi có thêm một niềm vui bất chợt trong đêm nay. Ở cái khe bàn tôi ngồi viết lấp
ló một tờ rơi. Tôi nhặt lên, không tin vào mắt mình nữa. Đây này, anh Thực ơi!
Đây này, cái bài thơ anh đọc cho em và Nguyễn Trần Thái nghe vào đêm đông cuối
chạp năm nào chính là thơ của thi sĩ - nhạc sĩ A Khuê mà em đang có trong tay.
Nó chính là bài thơ thứ 61 em cẩu thả để gió cuốn vào khe bàn. Anh Thực có biết
không, cái người thơ mà chúng ta tìm có một đời sống vui chậm, buồn trước. A
Khuê từng là một tay chăn bò thuê thứ thiệt nhiều năm trên núi đồi miệt Long
Khánh. A Khuê cũng từng cùng vợ và tám đứa con nheo nhóc thử kiếp “thuần nông”
trên các cánh đồng cò bay cò sã cánh tít hút Sóc Trăng. A Khuê có tới chừng 10
năm cấy lúa nhưng gặt rạ gặt rơm vì thất mùa nhiều gấp ba lần được. A Khuê vật
vã thợ hồ, đốn củi, đốt than nuôi một đàn con đang sức tằm ăn rỗi. Bụi thế, cát
thế mà thơ cứ ăm ắp mộng mị, cứ bay hương, bay những hương mê quyến rũ như chưa
hề buồn chán bao giờ. Bài thơ có 12 câu anh đọc vào đêm đông ngày ấy chính là
bài Đồi Trăng Uống Rượu anh Thực ạ. Cũng đúng là bài thơ chưa dừng ở
câu Áo trăng quá lạnh tôi về giết trăng. Nó còn những sáu câu trong
khổ kết. Sáu câu còn lại của bài thơ trọn vẹn Đồi Trăng Uống Rượu là khúc vĩ
thanh rất nhiều tươi sáng. Trần Quốc Thực ơi! Dù ở tận trời nào thì cũng hãy về
quanh đây cho em được đọc nốt sáu câu kết mà anh dự cảm rằng có thể bài thơ
chưa kết thúc. Nó thế này:
Giết
trăng tôi lại lên đồi
Ngơ
ngơ ngác ngác tôi ngồi nhớ trăng
Đồi
trăng đỏ tôi mê man
Ôi
tôi biết cõi phai tàn sau lưng
Đồi
trăng uống rượu vô cùng
Xin
thưa trời đất tôi mừng tôi say
Bài
thơ đã hết thật rồi!
Tôi
đốt một nén trầm rồi ba lần đọc to những câu thơ A Khuê, như thể vẫn còn bên
tôi một Trần Quốc Thực gan ruột với thơ giữa buốt rét đêm nào Hà Nội…
Thành
phố Vũng tàu
Đêm
13 rạng ngày 14.08.2008
H.Q
H.Q
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét